Nghiên cứu về những thay đổi về các biện pháp tránh thai hiệu quả và tránh thai tạm thời tác dụng kéo dài ở Việt Nam đã được đăng tải trên tạp chí Contraception tháng 03/2019 ;99(3):165-169
Nhóm tác giả: Sarah Asad1, Courtney Hebert2, Rebecca Andridge3, Nghia Nguyen4, Maria F Gallo5
Xuất bản trực tuyến: 30/11/2018
Đơn vị công tác:
- Đại học Bang Ohio (OSU), Đại học Y tế Công cộng (CPH), Khoa Dịch tễ học, Cunz Hall, 1841 Neil Avenue, Columbus, OH, 43210, USA.
- Đại học Bang Ohio, Đại học Y khoa, Khoa Tin học Y sinh, Tháp 250 Lincoln, 1800 Cannon Drive, Columbus, OH, 43210, Hoa Kỳ.
- Đại học Bang Ohio, Đại học Y tế Công cộng, Phòng Thống kê Sinh học, Cunz Hall, 1841 Neil Avenue, Columbus, OH, 43210, USA.
- Khoa Phụ sản, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, 458 Minh Khai, Hà Nội, Việt Nam.
- Đại học Bang Ohio (OSU), Đại học Y tế Công cộng (CPH), Khoa Dịch tễ học, Cunz Hall, 1841 Neil Avenue, Columbus, OH, 43210, USA. Hòm thư điện tử: gallo.86@osu.edu.
Tổng quan
Mục tiêu: Tính toán tỷ lệ hiện mắc và xác định các yếu tố liên quan đến nhu cầu tránh thai chưa được đáp ứng và đánh giá tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiệu quả và biện pháp tránh thai tạm thời tác dụng kéo dài (long-acting reversible contraception – LARC) có thay đổi theo thời gian ở những phụ nữ trong độ tuổi sinh nở ở Việt Nam, đã kết hôn hay đang sống chung, hay không.
Phương pháp: Mẫu nghiên cứu được lấy từ các cuộc Điều tra theo cụm nhiều chỉ số đại diện trên toàn quốc được thực hiện vào các năm 2000, 2006, 2011 và 2014. Nhu cầu tránh thai chưa được đáp ứng được xác định là xảy ra khi một phụ nữ đã kết hôn hoặc đang sống chung không sử dụng bất kỳ biện pháp tránh thai nào nhưng không muốn có con hoặc muốn hoãn sinh ít nhất 1 năm hoặc cho đến khi kết hôn. Theo xếp hạng về hiệu quả của các phương pháp do Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, chúng tôi định nghĩa “biện pháp tránh thai hiệu quả” là que cấy, dụng cụ tử cung, triệt sản nam và nữ, thuốc tiêm, thuốc viên, miếng dán, vòng hoặc màng ngăn. Chúng tôi đã sử dụng hồi quy logistic đa biến để xác định các yếu tố liên quan đến nhu cầu tránh thai chưa được đáp ứng trong năm 2014 và kiểm tra xu hướng Cochran-Armitage để đánh giá những thay đổi trong việc sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả và LARC từ năm 2000 đến năm 2014. Tất cả các phân tích đều sử dụng trọng số khảo sát để tính cho thiết kế lấy mẫu phức tạp.
Kết quả: Năm 2014, 4,3% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản đã kết hôn hoặc đang sống chung chưa được đáp ứng nhu cầu tránh thai. Phân tích đa biến cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nhu cầu tránh thai chưa được đáp ứng với tuổi, trình độ học vấn và số con đã sinh với. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiệu quả đã giảm đáng kể theo thống kê từ 53,0% năm 2000 xuống 45,7% năm 2014 (p <0,0001). Tương tự, LARC giảm từ 39,6% năm 2000 xuống 30,0% năm 2014 (p <0,0001). Sau khi điều chỉnh về độ tuổi, trình độ học vấn, nơi cư trú và có ít nhất một con trai, những xu hướng dài hạn này vẫn được duy trì.
Kết luận: Các kết quả chỉ ra rằng việc sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả và LARC đã giảm ở phụ nữ trong độ tuổi sinh nở đã kết hôn hoặc đang sống chung ở Việt Nam. Nên dựa vào các yếu tố liên quan tới nhu cầu tránh thai chưa được đáp ứng để điều chỉnh các biện pháp can thiệp nhằm ngăn ngừa mang thai ngoài ý muốn.
Ý nghĩa: Cho dù tỷ lệ nhu cầu tránh thai chưa được đáp ứng ở mức thấp (4,3%) vào năm 2014, nhưng việc sử dụng các biện pháp tránh thai hiệu quả và tránh thai tạm thời tác dụng kéo dài đã giảm ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, đã kết hôn hoặc đang chung sống ở Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2014. Phát hiện này đặc biệt ấn tượng trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế của quốc gia trong khoảng thời gian đó.
- PMID: 30503505
- PMCID: PMC6422685
- DOI: 10.1016/j.contraception.2018.11.014
Từ khóa: Biện pháp tránh thai; Biện pháp tránh thai tạm thời tác dụng kéo dài; Điều tra dựa trên dân số; Mức độ phổ biến; Việt Nam.
Được trích dẫn bởi 1 bài báo
Các yếu tố liên quan tới của việc xuất tinh ngoài để tránh thai ở phụ nữ ở Việt Nam.
Nguyen N, Nguyen L, Nguyen H, Gallo MF.
BMC Womens Health. 2020 Apr 29;20(1):87. doi: 10.1186/s12905-020-00957-z.
PMID: 32349745
Để đọc toàn bộ bài báo, vui lòng truy cập tại đây