Trật khớp khuỷu tay
Nhóm tác giả: James Layson 1 ; Ben J.
Ngày xuất bản: 30,04, 2022.
Đơn vị công tác:
- Ascension Macomb-Oakland
- Đại học Bang Michigan
Hoạt động giáo dục thường xuyên
Trật khớp khuỷu tay là một tình trạng trật khớp lớn thường gặp ở trẻ em và người lớn. Chúng có thể xảy ra với gãy xương liên quan hoặc tổn thương các cấu trúc hỗ trợ xung quanh. Hoạt động này phác thảo việc đánh giá và quản lý tình trạng trật khớp khuỷu tay và đánh giá vai trò của nhóm chăm sóc sức khỏe liên chuyên nghiệp trong việc cải thiện chăm sóc bệnh nhân mắc chứng này
Mục tiêu:
- Xác định các kiểu điển hình và các biểu hiện thường gặp của bệnh nhân bị trật khớp khuỷu tay.
- Tổng hợp những lưu ý khi điều trị cho bệnh nhân bị trật khớp khuỷu tay.
- Mô tả và nhận xét các biến chứng thường gặp của bệnh nhân trật khớp khuỷu.
- Đánh giá tầm quan trọng của việc cải thiện sự phối hợp chăm sóc giữa đội ngũ liên chuyên gia để tăng cường phối hợp chăm sóc cho những bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi trật khớp khuỷu tay
Giới thiệu
Khuỷu tay là một trong những khớp lớn dễ bị trật khớp. Có thể bị trật đơn độc, liên quan đến tổn thương cấu trúc giữ vững tĩnh của khuỷu tay, và thậm chí có thể gãy xương khuỷu tay. Do đó, điều quan trọng là nhận ra trật khớp khuỷu và biết cách xử trí thích hợp để tránh các biến chứng.
Khuỷu tay là khớp nối giữa đầu dưới xương cánh tay với đầu trên xương trụ và xương quay. [1] Đầu dưới xương cánh tay có chỏm con bên trong và ròng rọc bên ngoài. Ba khớp riêng biệt tạo nên khuỷu tay. Phần bên trong khuỷu tay bao gồm khớp ròng rọc -ổ chảo chịu trách nhiệm chính cho gấp – duỗi cẳng tay. Khớp quay-chỏm con ở bên ngoài và khớp quay- trụ trên có chức năng chính là sấp- ngửa. [2] Hình thái giải phẫu này tạo nên sự phối hợp giữa khớp bản lề và khớp xoay. [1]
Khuỷu tay thường ổn định do sự đồng nhất của bề mặt khớp. Nó được hỗ trợ thêm bởi các cấu trúc giữ vững tĩnh, bao gồm các dây chằng bên trong và ngoài của khuỷu tay và bao khớp. Yếu tố giữ vững động cho khớp được bao bọc bởi các cơ xung quanh. [1]
Giải phẫu mạch máu khuỷu tay gồm một số cấu trúc. Động mạch cánh tay là một thành phần trung tâm của vùng khuỷu trước, nó chia thành động mạch quay và động mạch trụ ở dưới nếp gấp khuỷu. Động mạch quay và trụ, cùng với động mạch cánh tay và động mạch cánh tay sâu, tạo thành các mạng mạch phức tạp quanh khuỷu tay, bao gồm động mạch quặt ngược quay và quặt ngược trụ và các vòng nối. [5]
Có nhiều dây thần kinh quanh khuỷu tay và chúng có thể bị tổn thương do trật khớp khuỷu. Dây thần kinh quay đi trong khoang sau cánh tay trong rãnh TK quay của xương cánh tay và chạy xuống dưới ra ngoài gần khuỷu tay, nằm trước mỏm trên lồi cầu ngoài. [6] Sau đó, nó phân chia thành một nhánh nông và nhánh sâu, nhánh sâu cho nhánh thần kinh gian cốt sau khi đi qua các đầu của cơ ngửa. [7] Dây thần kinh giữa chạy trong rãnh gân nhị đầu cùng với động mạch cánh tay, đi qua động mạch cánh tay và dưới trẽ cân cơ nhị đầu gần khuỷu tay, nó ở phía bên trong so với động mạch cánh tay. [8] Dây thần kinh gian cốt trước là một nhánh tận cùng của dây thần kinh giữa sau khi nó đi qua đầu cơ sấp tròn, có chức năng vận động ở phần lớn cơ gấp sâu trong khoang sau sâu của cẳng tay. [9] Dây thần kinh trụ nằm phía trong cánh tay, và gần khuỷu tay, đi sau mỏm trên lồi cầu trong xương cánh tay. [10]
Nguyên nhân
Té ngã duỗi tay là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến trật khớp khuỷu. Đối với trật khớp khuỷu ra sau, các lực tổng thể liên quan đến trật khớp bao gồm lực nén dọc trục, lực dạng ngoài và ngửa cẳng tay. [1] Khi bàn tay nhận lực từ mặt đất, nó tải lực hướng lên trục khuỷu tay. Cẳng tay ngửa khi bàn tay xoay ngoài lúc chống tay trên mặt đất. [12] Chuyển động này dẫn đến dạng khuỷu tay ra ngoài. [13] Đối với trật khớp khuỷu tay trước, cơ chế này thường liên quan đến một cú ngã khi gấp khuỷu tay, với một lực hướng về phía trước đầu trên xương trụ. [14]
Quan trọng là, các cấu trúc mô mềm có thể bị tổn thương khi trật khớp khuỷu. Sự phá vỡ các cấu trúc nâng đỡ từ ngoài vào trong được gọi là “vòng tròn Horii”. [12] Do đó, thứ tự của sự gián đoạn như sau: dây chằng bên ngoài, bao khớp trước và sau, và dây chằng bên trong. [ 1]
Người ta phân loại trật khớp khuỷu theo hướng của mỏm khuỷu so với xương cánh tay. Các khả năng có thể xảy ra là trật ra sau ngoài, sau trong, trước, sau, trong hoặc ngoài. Trật sau ngoài là dạng trật phổ biến nhất. [13] Trên thực tế, 90% trường hợp là trật ra sau hoặc sau ngoài. [15]
Trật khớp có thể trật hoàn toàn hoặc bán trật. Bán trật khớp cho thấy mỏm vẹt nằm dưới ròng rọc thay vì tách ra hoàn toàn như trật khớp hoàn toàn. [13]
Cuối cùng, trật khớp có thể đơn giản hoặc phức tạp. Trật khớp đơn giản chỉ liên quan đến chấn thương cấu trúc bao khớp hoặc dây chằng. Trật khớp phức tạp liên quan đến gãy xương. [3] Chúng thường bao gồm đài quay, mỏm vẹt, mỏm khuỷu, đầu dưới xương cánh tay, và lồi cầu trong hoặc ngoài xương cánh tay. [15] Trong các loại gãy, có loại gãy trật được gọi là “tam chứng đau khổ” do tiên lượng. Tam chứng đau khổ là tình trạng trật khớp khuỷu tay với cả gãy đài quay và gãy mỏm vẹt xương trụ. [3]
Dịch tễ học
Trật khớp khuỷu là loại trật khớp lớn phổ biến thứ hai. [13] Ở trẻ em, nó là tình trạng trật khớp lớn thường gặp nhất. [16] Tỷ lệ trật khớp khuỷu tay là 5,21 trên 100.000 người-năm. Trật khớp khuỷu tay cũng phổ biến hơn ở nam giới so với nữ giới, tương ứng là 53% so với 47%. Đáng chú ý, tỷ lệ trật khớp tăng gần gấp đôi ở nam có độ tuổi 10-19.
Nhóm tuổi 10-19 cũng chiếm gần một nửa (43,5%) số ca trật khớp khuỷu tay. Tuổi tác tỉ lệ nghịch với tỷ lệ trật khớp khuỷu: Khi tuổi càng cao, tỷ lệ trật khớp khuỷu càng giảm. Hơn một nửa trường hợp trật khớp xảy ra ở nhà, sau đó là ở cơ quan và trường học. Các môn thể thao hay gặp có tỷ lệ trật khớp khuỷu từ cao nhất đến thấp nhất là bóng đá, trượt patin hoặc trượt ván và đấu vật. [2]
Bệnh sử và lâm sàng
Đánh giá khách quan nên bắt đầu bằng bằng quan sát khuỷu tay, tìm kiếm bất kỳ biến dạng hoặc sai lệch vị trí của chi. Sờ khuỷu tay tìm kiếm dấu hiệu tràn dịch khớp và xem da có bầm máu hay không. Tiếp theo, sờ khuỷu để đánh giá xem bệnh nhân có bị đau không. [3] Sờ cổ tay xem có mất vững không để loại trừ trật khớp quay trụ dưới, điều này chỉ ra có sự rách màng gian cốt. [15] Ngoài ra, cần đánh giá cẩn thận tầm vận động của khuỷu tay có thể cho phép người tìm ra khớp nối bị trật, kèm theo tiếng lạo xạo có thể có trong gãy xương nội khớp.[3]
Sau đó, tình trạng mạch máu thần kinh của cần được ghi nhận. Hiếm khi xảy ra tổn thương động mạch hoặc thần kinh khi trật khớp khuỷu. Tuy nhiên, ta cần ghi nhận do mạch máu thần kinh có thể tổn thương tiềm ẩn sau khi nắn trật. [15]
Do đó, chức năng thần kinh vận động là một phần thiết yếu của khám lâm sàng và cần phải kiểm tra ở những bệnh nhân trật khớp khuỷu. Khám thần kinh giữa bằng cách kiểm tra chức năng của nhóm cơ gấp nông ngón tay, yêu cầu bệnh nhân nắm tay hình nắm đấm. [8] Cụ thể, bệnh nhân sấp cẳng tay và duỗi các ngón tay trên bàn khám, yêu cầu bệnh nhân gấp từng ngón một. Khám dây thần kinh gian cốt trước bằng cách đánh giá chức năng của cơ gấp ngón cái dài, hoặc yêu cầu bệnh nhân làm dấu hiệu “OK”, đánh giá gấp ngón tay cái tại khớp liên đốt. [9]Khám dây thần kinh quay bằng đánh giá chức năng vận động của nhóm cơ duỗi cổ tay và khả năng duỗi cổ tay của bệnh nhân; nếu họ không thể, thuật ngữ cho tình trạng này là “bàn tay rũ cổ cò.” [6] Dây thần kinh gian cốt sau vận động cho cơ duỗi ngón cái dài, yêu cầu bệnh nhân thực hiện động tác “number 1”. [7] Cuối cùng, dây thần kinh trụ vận động cho cơ gian cốt mặt lưng và mặt lòng, yêu cầu bệnh nhân dạng và khép các ngón tay. [10]
Đánh giá
Thầy thuốc phải biết rõ hướng trật trước khi tiến hành nắn trật. [15] X quang khuỷu tay rất cần thiết, bao gồm phim chụp trước-sau và phim nghiêng. [13] Phim nghiêng của khuỷu tay giúp xác định hướng trật khớp và ổ gãy xung quanh. [15]
Phim sau nắn được chỉ định để đánh giá sự nắn đồng đều của khớp và ổ gãy liên quan. [13] Trên bệnh nhi, điều quan trọng là phải tìm ra chỗ chẹn của mỏm trên lồi cầu trong. [4] Chụp cắt lớp vi tính của khuỷu tay rất hữu ích để giúp xác định các chấn thương hoặc gãy xương liên quan, chẳng hạn như tam chứng đau đớn, có thể khó nhìn thấy trên phim thông thường. Nếu gãy xương nhỏ và không di lệch, chúng có thể được điều trị bảo tồn như một trật khớp khuỷu đơn giản. [3]
Điều trị/ Xử trí
Tiến hành nắn trật khuỷu là cách xử trí ban đầu. [3] Nếu trật khớp khuỷu xảy ra lúc chơi thể thao, các bác sĩ kinh nghiệm có thể tiến hành nắn ngay trên sân, trước khi chụp X-quang. [13] Việc giảm này làm giảm đau và sưng do tổn thương. [3]
Nói chung, việc nắn chỉnh đòi hỏi bệnh nhân dùng thuốc an thần và giãn cơ đường tĩnh mạch thích hợp, thường được thực hiện tại khoa cấp cứu. Nếu có trật khuỷu tay theo hướng bên trong hoặc ngoài, thì cần nắn di lệch sang bên trước khi kéo dọc trục cẳng tay. Vì trật khớp ra sau ngoài là phổ biến nhất, nên khuỷu tay thường ở tư thế duỗi. [13] Ấn lên mặt sau của mỏm khuỷu theo hướng ra trước và xuống dưới để nắn mỏm khuỷu vào ròng rọc xương cánh tay. Thông thường, có thể sờ hoặc nghe tiếng lộp cộp lúc nắn trật, điều này chỉ ra khớp đã ổn định . [13] [15]
Sau khi nắn, độ vững của khuỷu tay được đánh giá bằng kiểm tra tầm vận động nhẹ nhàng với gập / duỗi, dạng/ khép, cũng như sấp / ngửa. [3] Thông thường, sự mất vững sau nắn xuất hiện khi duỗi khuỷu tay, điều này chỉ ra khớp mất vững. [13] Bệnh nhân cần mang nẹp sau nắn, thường dùng nẹp bột cánh tay sau-dài ngăn bệnh nhân duỗi khuỷu. Nẹp khuỷu tay thường ở dạng gấp 90 độ.
Sau đó, thăm khám lại mạch máu thần kinh để đảm bảo không có tổn thương mạch máu hoặc thần kinh sau nắn. Có thể xảy ra tổn thương động mạch cánh tay hoặc dây thần kinh giữa do chèn ép, khi đó ta xử trí bằng phẫu thuật thăm dò. [3]
Sau khi nắn khớp ổn định, cho bệnh nhân mang nẹp bột cánh tay sau-dài, cánh tay gập 90 độ. Theo dõi tại phòng khám ngoại trú và chụp X quang thêm để đánh giá việc duy trì nắn chỉnh và độ vững của khớp. Sau hai tuần, nếu khớp ổn định, nẹp bột được tháo ra và bắt đầu tập vật lý trị liệu bằng cách một loạt các bài tập tầm vận động để tránh mất duỗi khuỷu. Khi khớp chưa vững, tiếp tục mang nẹp, và việc sử dụng nẹp bột chống gập cho bệnh nhân duỗi khuỷu sớm. [15] Sẽ tốt hơn nếu bắt đầu tập vận động dưới sự giám sát và tránh bất động kéo dài. [13]
Xử trí phẫu thuật chỉ được chỉ định trong một số trường hợp. Nếu trật khớp không thể nắn được, thì việc nắn kín dưới gây mê trong phòng mổ là một lựa chọn khả thi, vì việc giãn cơ khó nắn khi dùng thuốc an thần tại khoa cấp cứu.
Một chỉ định khác cho phẫu thuật là khuỷu mất vững khi duỗi trong tầm vận động, biểu hiện bằng trật khớp khi duỗi khuỷu từ 50 đến 60 độ. [15] Theo truyền thống, mục tiêu phẫu thuật là khôi phục tầm vận động ổn định khi gập và duỗi từ 30 đến 130 độ, đồng thời sấp và ngửa đến 50 độ. Tuy nhiên, mục tiêu này đang thay đổi theo cụ thể từng bệnh nhân, tùy thuộc vào nghề nghiệp của họ. [17] Sự mất vững của khuỷu tay cũng có thể do tổn thương các dây chằng bên, cần được sửa chữa để khôi phục sự ổn định và chức năng. [15]
Phẫu thuật là cần thiết nếu có bất kỳ trường hợp gãy xương mất vững đi kèm theo trật khớp khuỷu phức tạp. [15] Điều này bao gồm các mảnh gãy kẹt trong khớp, hoặc mỏm trên lồi cầu trong bị kẹt nội khớp, có thể thấy ở các trường hợp trật khớp khuỷu trẻ em. [4] Phương pháp phẫu thuật cho trật khớp phụ thuộc vào kiểu gãy xương, kiểu mất vững và chấn thương mô mềm xung quanh. [3]
Chẩn đoán phân biệt
Trật khớp khuỷu là biểu hiện lâm sàng được xác nhận trên phim X quang. Khuỷu tay và các cấu trúc xương xung quanh cần sờ để đánh giá dấu hiệu đau. [3] Đau khuỷu tay có thể do các nguyên nhân khác, chẳng hạn như gãy đầu dưới xương cánh tay, gãy lồi cầu trong hoặc ngoài, gãy đài quay hoặc thân xương trụ. Cũng có thể chấn thương đơn độc các dây chằng ở khuỷu tay, chẳng hạn như dây chằng bên trong, dẫn đến mất vững dạng khuỷu tay. [4]
Trật khớp khuỷu tay mạn tính là chẩn đoán phân biệt. Trật khớp khuỷu mạn tính là tình trạng khuỷu tay trật hơn hai tuần. Điều cần thiết là phải xác định xem có tiền sử mất vững, những lần nắn trật trước đó hoặc nhiều đợt tái trật khớp hay không. Chèn ép thần kinh trụ trong trật khớp mạn tính xảy ra ở 15% bệnh nhân. Do đó, sự xơ hóa của các cấu trúc xung quanh làm nắn trật khó khăn. Can thiệp phẫu thuật với nắn hở là cần thiết do mô xơ và mô hạt lan rộng bên trong khớp. Phẫu thuật thường liên quan đến việc giải phóng bao khớp trước và sau kèm mô xơ xung quanh. Bệnh nhân có thể cần thủ thuật kéo dài cơ tam đầu hoặc chuyển vị thần kinh trụ. [16]
Tiên lượng
Không hiếm trường hợp bệnh nhân bị mất duỗi 10 đến 15 độ. Giới hạn thời gian bất động dưới ba tuần để tránh co rút. Nẹp khuỷu tay động cùng với vật lý trị liệu được sử dụng nếu bệnh nhân không cải thiện trong thời gian mong đợi. Có thể mất đến 5 tháng để bệnh nhân phục hồi duỗi khuỷu. Nếu thất bại, can thiệp phẫu thuật để giải phóng co rút được thực hiện. [15]
Ở trẻ em, tiên lượng sau trật khớp khuỷu thường tốt hơn. Trẻ em có tỷ lệ co rút và mất cử động thấp và tỷ lệ phục hồi chức năng cao. [16]
Biến chứng
Một trong những biến chứng phổ biến nhất của chấn thương khuỷu tay là mất tầm vận động. Trong đó, mất duỗi là phổ biến nhất và liên quan đến thời gian bất động của nẹp tĩnh. Bất động quá 25 ngày có thể dẫn đến mất duỗi 30 độ và mất gấp gần 20 độ. Nguyên nhân bên ngoài có thể do sự co rút của bao khớp trước, hoặc của các dây chằng bên và các cơ bọc xung quanh. [17] Sự co rút của bao khớp trước là nguyên nhân phổ biến nhất của mất duỗi do xơ hóa bao khớp. [15] Các nguyên nhân bên trong, chẳng hạn như mất đồng nhất bề mặt khớp hoặc các mảnh gãy gây kẹt khớp, làm mất gấp duỗi khuỷu.[17]
Tạo xương ngoại vi thường phổ biến, nhưng thường bao quanh khớp và không cản trở chuyển động. [15] Bệnh nhân viêm cơ xương hóa có sự lắng đọng canxi trong cấu trúc mô mềm và cơ xung quanh khớp, đó là lý do tại sao nó hiếm khi cản trở chuyển động khớp. [17] Tạo xương bất thường cản trở vận động xảy ra ở ít hơn 5% bệnh nhân trật khớp khuỷu. Có mối liên quan giữa sự tạo xương ngoại vi và chấn thương đầu kín. [15] Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm nam trên 60 tuổi, bệnh nhân bỏng và rối loạn di truyền. [17] Dự phòng cho những bệnh nhân có nguy cơ cao bao gồm sử dụng thuốc chống viêm không steroid, NSAID, và bức xạ cục bộ liều thấp. [15] Indomethacin là NSAID được nghiên cứu và sử dụng phổ biến nhất để ngăn ngừa quá trình tạo xương ngoại vi, thường được dùng ba lần mỗi ngày với liều 25 miligam hoặc 75 miligam hai lần mỗi ngày. Có thể dự phòng bằng bức xạ theo nhiều cách, nhưng phổ biến nhất là dùng một liều duy nhất 700 cGy cho vị trí tổn thương trong vòng 72 giờ. Nếu thất bại có thể cần phải phẫu thuật cắt bỏ và nên đợi xương hóa trưởng thành và ổn định trên X quang. [17]
Mất vững khuỷu tay là một biến chứng phổ biến khác. Do cơ chế chấn thương, tay thuận và dây chằng liên quan ta có thể tùy biến để xử trí thích hợp. Suy yếu dây chằng bên ngoài khá phổ biến, dẫn đến sự mất vững dạng khuỷu, điều trị bệnh nhân ở tư thế sấp tay lúc mang nẹp để cho mô mềm phục hồi. [15] Nếu phải điều trị phẫu thuật trật khớp khuỷu hoặc gãy xương liên quan, sửa chửa phải đạt yêu cầu giải phẫu.
Tổn thương mạch máu thần kinh do trật khớp khuỷu cấp tính không phổ biến; tuy nhiên, chứng suy yếu thần kinh trụ được báo cáo phổ biến nhất. Bệnh nhân thường được theo dõi, vì những tổn thương này thường suy giảm sau khi nắn kín. Các bệnh lý thần kinh khác như dây thần kinh giữa và thần kinh gian cốt trước ít xảy ra hơn. Chèn ép thần kinh giữa có thể xảy ra, đặc biệt ở trẻ em. Nó thường bị chèn ép ở ổ gãy hoặc phía sau vùng di lệch của lồi cầu trong, có thể nhìn thấy trên phim X quang khi lồi cầu trong giãn ra do dây thần kinh giữa ép nó, hoặc suy yếu thần kinh sau khi nắn kín. Khi đó ta cần mổ hở thăm dò thăm dò thần kinh giữa. Ở những bệnh nhân có biểu hiện chèn ép thần kinh trên lâm sàng, chỉ định đo điện cơ sau ba tháng khi các triệu chứng kéo dài. Cuối cùng, tổn thương động mạch cánh tay có thể xảy ra. Đánh giá ban đầu về mạch và mức độ tưới máu rất quan trọng, nếu không có mạch thì phải nắn trật khẩn cấp. Mạch sẽ có lại sau khi nắn. Ở những bệnh nhân vô mạch hoặc không tưới máu trở lại, nên nghi ngờ nhiều về tổn thương mạch máu. [17]
Sự ngăn cản và giáo dục bệnh nhân
Một số hoạt động thể thao dễ gây trật khớp khuỷu tay hơn do tính chất của các lực gặp phải. Các môn thể thao phổ biến nhất là bóng đá, trượt patin, trượt ván và đấu vật. [2] Những bệnh nhân này nên được tư vấn, đeo thiết bị bảo vệ và nếu có thể, cố gắng tránh những căng quá mức đối ở vùng khuỷu.
Bệnh nhân thường mất duỗi 10-15 độ sau khi trật khớp khuỷu. [15] Bệnh nhân cần được tư vấn sớm về điều này và hướng tới việc tập tăng tầm vận động càng sớm càng tốt.
Cuối cùng, trật khớp khuỷu là tình trạng trật khớp lớn phổ biến nhất ở trẻ em. [16] Bệnh nhi có xu hướng phục hồi tầm động và chức năng của khuỷu tay nhanh hơn nhiều so với người lớn. Tuy nhiên, cha mẹ cần hiểu rõ khả năng xảy ra rối loạn tăng trưởng ở trẻ. [16]
Điểm đáng chú ý và các vấn đề khác
Trật khớp khuỷu ở trẻ em có nhiều điểm giống với trật khớp khuỷu ở người lớn. Tuy nhiên, ở trẻ em gãy lồi cầu trong có thể xảy ra. Có tới 60% trường hợp gãy lồi cầu trong liên quan đến trật khớp khuỷu ở trẻ. Quan trọng là, lồi cầu trong là trung tâm cốt hóa cuối cùng ở đầu dưới xương cánh tay hình thành ở bất kỳ tuổi nào từ 15 đến 20 tuổi. Lồi cầu trong là điểm bám của cơ gấp chung các ngón và là nguyên ủy mặt dưới của dây chằng bên trong, khiến nó dễ bị chấn thương với tổn thương làm dạng khuỷu. Nó cũng nằm trước dây thần kinh trụ. [4] Do tỷ lệ tổn thương cao hơn, điều quan trọng là phải đánh giá phim chụp X quang sau nắn, vì lồi cầu trong có thể bị kẹt trong khớp sau khi nắn. [13]
Cải thiện kết quả của nhóm chăm sóc sức khỏe ban đầu
Chăm sóc bán chuyên là điều cơ bản để điều trị bệnh nhân bị trật khớp khuỷu tay. Nếu trật khớp khuỷu tay xảy ra trên sân thể thao, một thành viên của nhóm chăm sóc sức khỏe ban đầu có thể nắn khớp ngay lập tức. [13] Giáo dục cho những người này, chẳng hạn như nhà vật lý trị liệu hoặc huấn luyện viên thể thao, có thể cho phép điều trị kịp thời nếu không có bác sĩ.
Chụp X quang khuỷu tay đơn giản là cần thiết để biết hướng trật khớp, bao gồm phim trước-sau và phim nghiêng. [13] [15] Cần phối hợp với các kỹ thuật viên X quang để tạo ra hình ảnh chính xác của khuỷu tay.
Nắn kín là xử trí ban đầu, và thường làm ở khoa cấp cứu (ED). [3] Để giãn cơ cho nắn kín, khoa cấp cứu thường dùng thuốc an thần cho bệnh nhân. Thời gian ở lại khoa cấp cứu có thể cải thiện thông qua các chiến lược giao tiếp giữa các chuyên gia và được chứng minh là cải thiện sự hài lòng của bệnh nhân. Theo dõi và chăm sóc nên có điều dưỡng được đào tạo chuyên khoa chấn thương chỉnh hình để đảm bảo tiến trình điều trị, trả lời các câu hỏi và đánh giá sự tuân thủ. Việc chăm sóc này cần phối hợp với nhóm lâm sàng.
Một nghiên cứu cải thiện chất lượng từ Bệnh viện Nhi Boston đã xem xét các cách để giảm thiểu điều này, bao gồm các cuộc họp liên quan đến trợ lý lâm sàng, bác sĩ khoa cấp cứu, bác sĩ chỉnh hình và điều dưỡng. Họ đã khởi xướng các chiến lược, vai trò và danh sách kiểm tra mới để cố gắng nâng cao hiệu quả. Họ nhận thấy thời gian nằm viện giảm 5,8% ở những bệnh nhân dùng thuốc an thần khi nắn chỉnh gãy xương dài; điều này cũng có sự tham gia của các nhân viên bán chuyên để giúp tăng hiệu quả cùng nhau. [18] [Cấp độ V]
PMID: 31747224
Trích dẫn bài viết: Trật khớp khuỷu tay
Tham khảo
- Taylor F, Sims M, Theis JC, Herbison GP. Can thiệp điều trị trật khớp khuỷu tay cấp tính ở người lớn. Cơ sở dữ liệu Cochrane Syst Rev. 2012 ngày 18 tháng 4; (4): CD007908. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ]
- Stoneback JW, Owens BD, Sykes J, Athwal GS, Pointer L, Wolf JM. Tỷ lệ trật khớp khuỷu tay ở dân số Hoa Kỳ. J Xương Khớp phẫu thuật Am. 2012 ngày 01 tháng 2; 94 (3): 240-5. [ PubMed ]
- Mathew PK, Athwal GS, King GJ. Tổn thương bộ ba khủng khiếp của khuỷu tay: những khái niệm hiện nay. J Am Acad phẫu thuật chỉnh hình. 2009 tháng 3; 17 (3): 137-51. [ PubMed ]
- Gottschalk HP, Eisner E, Hosalkar HS. Gãy xương thượng bì trung gian ở trẻ em. J Am Acad phẫu thuật chỉnh hình. 2012 Tháng 4; 20 (4): 223-32. [ PubMed ]
- Thẻ RK, Lowe JB. StatPearls [Internet]. Nhà xuất bản StatPearls; Đảo Kho Báu (FL): Ngày 26 tháng 7 năm 2021. Giải phẫu, Vai và Chi trên, Khớp khuỷu tay. [ PubMed ]
- Glover NM, Murphy PB. StatPearls [Internet]. Nhà xuất bản StatPearls; Đảo kho báu (FL): Ngày 27 tháng 7 năm 2021. Giải phẫu, Vai và Chi trên, Dây thần kinh hướng tâm. [ PubMed ]
- Wheeler R, DeCastro A. StatPearls [Internet]. Nhà xuất bản StatPearls; Đảo kho báu (FL): Ngày 19 tháng 1 năm 2022. Hội chứng dây thần kinh dị dạng sau. [ PubMed ]
- Murphy KA, Morrisonponce D. StatPearls [Internet]. Nhà xuất bản StatPearls; Đảo kho báu (FL): Ngày 27 tháng 5 năm 2021. Giải phẫu, Vai và Chi trên, Dây thần kinh trung vị. [ PubMed ]
- Akhondi H, Varacallo M. StatPearls [Internet]. Nhà xuất bản StatPearls; Đảo Kho Báu (FL): Ngày 12 tháng 2 năm 2022. Hội chứng Lồng ngực trước. [ PubMed ]
- Lleva JMC, Munakomi S, Chang KV. StatPearls [Internet]. Nhà xuất bản StatPearls; Đảo Kho báu (FL): Ngày 9 tháng 2 năm 2022. Bệnh thần kinh Ulnar. [ PubMed ]
Để đọc chi tiết bài nghiên cứu, vui lòng truy cập tại đây.
Nguồn tham khảo: Theo ncbi.nlm.nih.gov