MỚI

Sử dụng kháng sinh không phù hợp ở các bệnh viện tại Mỹ gia tăng trong đại dịch

Ngày xuất bản: 13/01/2023

Theo một nghiên cứu tại Hoa Kỳ, trong thời điểm diễn ra đại dịch, đã có sự gia tăng trong việc kê kháng sinh và kéo dài thời gian sử dụng kháng sinh tại các bệnh viện, đẫn đến làm tăng tỷ lệ kháng kháng sinh so với thời điểm trước dịch bệnh. Các nhà nghiên cứu hy vọng rằng, những dữ liệu của họ sẽ giúp cải thiện quá trình quản lý kháng sinh trong thời điểm dịch bệnh bùng phát.

Becky McCall

Ngày 27 tháng 4, năm 2022

LISBON, Bồ Đào Nha – Theo một nghiên cứu lớn tại Hoa Kỳ, trong thời gian đại dịch, tại các bệnh viện cấp cứu và chăm sóc tích cực với tỷ lệ kháng kháng sinh (AMR) trung bình và cao cho thấy sự gia tăng trong việc kê kháng sinh và thời gian điều trị kháng sinh kéo dài với tất cả các trường hợp nhập viện, đồng thời ở những bệnh nhân có mẫu nuôi cấy âm tính với vi khuẩn. 

Sử dụng kháng sinh không phù hợp ở các bệnh viện tại Mỹ gia tăng trong đại dịch

Phân tích trên 271 bệnh viện tại Mỹ cũng chỉ ra rằng tỷ lệ AMR cao hơn đáng kể trong thời gian đại dịch so sánh với trước đại dịch ở những bệnh nhân được xét nghiệm SAR-CoV-2, và cao nhất ở những bệnh nhân dương tính với SAR-CoV-2.

Hơn 1/3 các bệnh nhân dương tính với SAR-CoV-2 được kê kháng sinh có kết quả cấy vi khuẩn âm tính.

Phát hiện trong nghiên cứ này được trình bày bởi Vikas Gupta, Dược sĩ, Giám đốc Khoa Dược ở Tập đoàn Dược phẩm Becton, Dickinson and Company, tại Hội nghị Vi sinh lâm sàng và Bệnh truyền nhiễm (ECCMID). Ông tiến hành nghiên cứu này cùng với Karri Bauer, Dược sĩ, Merck Sharp & Dohme, Kenilworth, New Jersey, và các đồng nghiệp.

Gupta trả lời Medscape Medical News: “Có những điểm khác nhau về sự kháng kháng sinh vượt ra ngoài những trường hợp nhập viện dương tính với COVID.” “Có cơ hội cải thiện đặc biệt là với những bệnh nhân nhập viện với kết quả cấy vi khuẩn âm tính hoặc không lấy mẫu.”

Gupta nói, “Chúng tôi nhận thấy các bệnh nhân nhập viện dương tính với COVID có tỷ lệ cao hơn được kê kháng sinh mặc dù xét nghiệm vi khuẩn âm tính hoặc không được xét nghiệm.” “Các dữ liệu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nhập viện được điều trị kháng sinh nhiều hơn 3 ngày là cao hơn ở nhóm bệnh nhân dương tính với COVID nhưng âm tính hoặc không xét nghiệm vi khuẩn so với các nhóm khác.”

Trong tất cả các trường hợp được kê kháng sinh trong thời gian đại dịch, 57,8% các bệnh nhân SAR-CoV-2 được kê kháng sinh có kết quả cấy vi khuẩn âm tính hoặc không được cấy. Nhìn chung, ở thời điểm trước đại dịch, 35% những ca nhập viện được kê kháng sinh. 

Trong thời điểm trước đại dịch, thời gian điều trị kháng sinh trung bình là 3.5 ngày so sánh với 3.8 ngày tại thời điểm diễn ra đại dịch và 5.7 ngày ở những bệnh nhân dương tính với SAR_CoV-2. Tương tự, tỷ lệ bệnh nhân có kết quả cấy vi khuẩn âm tính hoặc không được cấy được điều trị kháng sinh trên 72 giờ là 17.6% ở thời điểm trước đại dịch so sánh với 19.2% ở thời điểm đại dịch, và 41.1% ở những bệnh nhân dương tính vời COVID-19.

Gupta và Bauer muốn xem xét tất cả các bệnh nhân nhập viện theo các nhóm là dương tính với SAR-CoV-2, âm tính, và không xét nghiệm, để biết được mức độ và thời gian sử dụng kháng sinh của bệnh nhân. Gupta nói, “Chúng tôi muốn tối ưu chứ không lạm dụng kháng sinh, đồng thời chúng tôi cũng muốn kê đơn thuốc đủ thời gian cho bệnh nhân.” 

Ông giải thích: “Hiện tại, không có một bằng chứng thuyết phục nào gợi ý rằng đại dịch đã dẫn đến tăng tỷ lệ AMR, vì thế chúng tôi hướng đến việc đánh giá ảnh hưởng của đại dịch lên sự kháng kháng sinh và lên việc sử dụng kháng sinh ở các bệnh viện tại Hoa Kỳ.”

Phân tích thuần thập hồi cứu đa trung tâm sử dụng nền tảng giám sát nhiễm trùng của BD (BD Insights Research Database [Franklin Lakes, NJ USA]) và được tiến hành trên 271 cơ sở cấp cứu vào chăm sóc tích cực, chiếm khoảng 10 – 13% các trường hợp nhập viện của Hoa Kỳ. Nó bao gồm tất cả các bệnh nhân nhập viện trên 1 ngày. Những bệnh nhân được xác định là dương tính với SARS-CoV-2 bằng test PCR hoặc test kháng thể trong 7 ngày trước khi nhập viện hoặc trong vòng 14 ngày kể từ khi nhập viện. 

Các bệnh nhân được phân loại là nhập viện trong thời kỳ trước đại dịch (ngày 1 tháng 7 năm 2019 đến ngày 29 tháng 2 năm 2020) và trong đại dịch (ngày 1 tháng 3 năm 2020 đến ngày 30 tháng 10 năm 2021) và được phân tầng dựa trên kết quả xét nghiệm SARS-CoV-2 của họ. 

Các nhà nghiên cứu đã thêm tất cả những trường hợp nhập viện có tình trạng kháng kháng sinh (nuôi cấy dương tính lần đầu với các vi khuẩn gram âm hoặc gram dương khó xác định trong máu, nước tiểu, đường hô hấp, trong ổ bụng, da/vết thương, và những nguồn khác. 

Các nhà nghiên cứu tính toán tỷ lệ AMR ở mức độ bệnh nhân nhập viện và xác định trên mỗi 100 trường hợp nhập viện. Đồng thời, họ cũng đánh giá tỷ lệ AMR dựa trên khởi phát trong cộng đồng (định nghĩa là mẫu nuôi cấy được lấy ≤ 2 ngày trước khi nhập viện) hoặc khởi phát trong bệnh viện ( > 2 ngày sau khi nhập viện). Cuối cùng, tỷ lệ AMR được xác định dựa trên sự liên quan của chúng đến thời điểm trước dịch bệnh hay thời điểm dịch bệnh.

Các bệnh viện cũng được phân loại dựa trên tỷ lệ AMR tại cơ sở của họ là thấp (<25%), trung bình (25 – 75%), và cao (>75%).

Nhìn chung, tỷ lệ AMR thấp hơn tại thời điểm đại dịch so với thời điểm trước đại dịch. Tuy nhiên, theo báo cáo của Gupta, cụ thể là với các tác nhân gây bệnh khởi phát tại bệnh viện, tỷ lệ AMR cao hơn rõ rệt ở trong thời kỳ đại dịch do hầu hết những ca nhập viện đều được xét nghiệm SARS-CoV-2 (cho dù dương tính hay âm tính). 

Các bệnh viện có tỷ lệ AMR cao có xu hướng có nhiều ca nhập viện dương tính với SARS-CoV-2 (6.1% ở các bệnh viện có tỷ lệ AMR cao và 3% ở bệnh viện có tỷ lệ AMR thấp). Tỷ lệ kê kháng sinh cao nhất và thời gian sử dụng kháng sinh dài nhất cũng được thấy ở những bệnh viện có tỷ lệ AMR cao nhất. 

Trong những bệnh nhân SAR-CoV-2 có kết quả nuôi cấy âm tính hoặc không được lấy mẫu và được kê kháng sinh, 36,5% số bệnh nhân nằm ở những bệnh viện có tỷ lệ AMR cao. Gupta cho biết, “Xấp xỉ 1/3 số bệnh nhân không có bằng chứng nhiễm khuẩn được kê kháng sinh ở những nơi có tỷ lệ AMR cao. Các nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu xem các bệnh viện với tỷ lệ AMR cao, trung bình, hay thấp có sự khác biệt trong mô hình kê kháng sinh hay không. Trong thời kỳ dịch bệnh, họ nhận thấy có sự gia tăng trong việc kê kháng sinh và thời gian dùng thuốc ở các bệnh viện có tỷ lệ AMR cao và trung bình.

Trước thời điểm đại dịch, tỷ lệ kháng kháng sinh khởi phát tại bệnh viện là 0.8 trên 100 ca nhập viện, trong khi đó tỷ lệ này đã tăng lên 1.4 trên 100 ca nhập viện ở các bệnh viện có tỷ lệ AMR cao, và giảm xuống 0.4 ở các bệnh viện có  tỷ lệ AMR thấp.

Tỷ lệ nhập viện của bệnh nhân dương tính với SARS-CoV-2 cao hơn ở các bệnh viện có tỷ lệ AMR trung bình (5.6%) và cao (6.1%) so sánh với bệnh viện có tỷ lệ AMR thấp (3%). Gupta cho biết, “Chúng tôi đã nhận thấy rằng những bệnh viện có tỷ lệ AMR trung bình và cao có xu hướng tiếp nhận nhiều bệnh nhân dương tính với COVID nhập viện hơn các cơ sở có tỷ lệ AMR thấp.” 

Jason C.Gallagher, Dược sĩ, BCPS, giáo sư lâm sàng tại Đại học Dược Temple, Philadelphia, đã trả lời với Medscape rằng, “Không có gì bất ngờ khi các bệnh nhân mắc COVID xuất hiện kháng kháng inh nhiều hơn những bệnh nhân không mắc. Mặc dù kháng sinh không có tác dụng với COVID, chúng vẫn được kê, và sử dụng kháng sinh là yếu tố nguy cơ chính của kháng kháng sinh. Điều này là do các bác sĩ thường lo ngại về việc đồng nhiễm vi khuẩn (hiếm gặp) và bởi vì những bệnh nhân COVID nặng nằm viện có thể mắc các nhiễm trùng khác trong thời gian điều trị.”

Chương trình quản lý kháng sinh 

Các chương trình quản lý kháng sinh đã được nhấn mạnh trong thời điểm diễn ra đại dịch, vì vậy các nhà nghiên cứu hy vọng những dữ liệu của họ sẽ giúp hỗ trợ thực hiện quản lý kháng sinh tốt hơn trong thời điểm đại dịch bùng phát đã khiến việc quản lý trở nên khó khăn hơn. 

Gupta giải thích rằng họ nhận thấy một số sự kết hợp thú vị cần thông báo với chương trình và nhóm quản lý kháng sinh. Ông nhấn mạnh, ”Chúng tôi không cố gắng bao hàm quan hệ nhân quả”

Thông thường, các nhóm quản lý cần đánh giá nhu cầu tiếp tục điều trị bằng kháng sinh sau 3 ngày, đặc biệt ở những bệnh nhân có mẫu nuôi cấy âm tính hoặc không được lấy mẫu. 

Ông nói: “Việc tạm dừng kháng sinh sau 3 ngày là phương pháp được khuyến nghị để đánh giá việc tiếp tục sử dụng kháng sinh dựa trên tình trạng của bệnh nhân và kết quả nuôi cấy vi khuẩn.” “Đây là điều khiến cho nghiên cứu của chúng tôi trở nên độc đáo, bởi vì chúng tôi muốn xem xét tỷ lệ phần trăm những ca nhập viện được kê kháng sinh trên 3 ngày và so sánh kết quả với thời điểm trước khi đại dịch diễn ra.”

Người điều hành phiên thảo luận Evangelos J. Giamarellos-Bourboulis, MD, PhD, phó giáo sư về nội khoa và bệnh truyền nhiễm, Đại học Athens, Hy Lạp, cảm ơn Gupta về bài phát biểu của ông, đồng thời muốn làm rõ liệu các dữ liệu về “việc sử dụng kháng sinh là theo kinh nghiệm có đúng không hay việc chúng có được dùng ở các bệnh viện có tỷ lệ AMR cao hay không, hay liệu cách tiếp cận này có dựa trên vi sinh học không?”

Một khán giả cũng nêu ra 1 câu hỏi với Gupta: “Ông có tính đến số lượng bệnh nhân không, vì trong nhiều trường hợp, trong đại dịch COVID, những bệnh nhân này có thể bị nặng hơn so với thời điểm trước đại dịch?”

Gupta trả lời: “Trong tài liệu của chúng tôi, chúng tôi đã làm một phân tính đánh giá những yếu tố ở mức độ bệnh nhân và mức độ khu vực. Tất nhiên sẽ có những sự khác biệt về số lượng bệnh nhân nhưng nhìn chung, những bệnh nhân này đều khá nặng khi chúng tôi đánh giá mức độ nặng tổng thể.”

Gupta là nhân viên và là cổ đông của Becton, Dickinson và Company. Bauer là nhân viên và là cổ đông của Merck & Co. Inc. Gallagher cố vấn cho nhiều công ty dược phẩm trong đó có Merck.

Giamarellos-Bourboulis tiết lộ danh dự (trả cho Đại học Athens) từ Abbott CH, Brahms Thermo Fisher GMBH Đức, GlaxoSmithKline, và Sobi; là nhà tư vấn cho Abbott CH, Fab’nTech, InflaRx GmbH, UCB, Sobi, và Xbiotech Inc; tài trợ nghiên cứu (trả cho Viện Hellenic để nghiên cứu bệnh nhiễm trùng huyết) từ Abbott CH, BioMerieux France, Johnson & Johnson, MSD, Sobi, Thermo Fisher Brahms GmbH; và tài trợ nghiên cứu của EU: Học viện Phân tích châu Âu ITN Horizon 2020 (cấp cho Đại học Athens); Horizon 2020 ImmunoSep và RISinCOVID (được cấp cho Viện Hellenic để nghiên cứu nhiễm trùng huyết); Horizon Health EPIC-CROWN-2 (được cấp cho Viện Hellenic để nghiên cứu nhiễm trùng huyết).

32nd European Congress of Clinical Microbiology & Infectious Diseases (ECCMID): Abstract 4960. Presented April 25, 2022.

Để biết thêm nhiều tin tức khác, theo dõi Medscape trên TwitterInstagramYouTube, và LinkedIn

Tag: Kháng sinh, COVID-19, kháng kháng sinh, bệnh viện

Link gốc: https://www.medscape.com/viewarticle/972834

facebook
3

Bình luận0

Đăng ký
Thông báo về
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận

Bài viết liên quan

Bài viết cùng chuyên gia

tra-cuu-thuoc

THÔNG TIN THUỐC

TRA CỨU NGAY