Nhiễm khuẩn huyết sơ sinh: Tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong cao ở các nước giàu vào nghèo
Nhiễm khuẩn huyết là nguyên nhân tử vong và gây bệnh hàng đầu trên khắp thế giới, ảnh hưởng đến bệnh nhân ở tất cả các lứa tuổi, ở khắp các châu lục và các hệ thống y tế, với phần lớn trong số đó là trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh.
LISBON, Bồ Đào Nha – Theo một nghiên cứu toàn cầu tiến hành trên 4 châu lục, sự chuyển sang dùng kháng sinh phổ rộng và tăng kháng kháng sinh đã dẫn đến tỷ lệ tử vong cao và ảnh hưởng đến phát triển thần kinh ở những trẻ còn sống. Kết quả của nghiên cứu kéo dài 3 năm này được trình bày ở Hội nghị Vi sinh lâm sàng và bệnh nhiễm trùng Châu Âu (ECCMID) vào tuần này.
Nghiên cứu quan sát NeoOBS được tiến hành bởi Hiệp hội Nghiên cứu và Phát triển kháng sinh toàn cầu (GARDP) và các đối tác chính từ năm 2018 đến 2020, quan sát đầu ra của hơn 3200 trẻ sơ sinh, cho thất tỷ lệ tử vong chung là 11% ở những trẻ nghi ngờ nhiễm khuẩn huyết sơ sinh. Tỷ lệ tử vong tăng lên đến 18% ở những trẻ phát hiện được tác nhân gây bệnh qua cấy máu.
Hơn một nửa số ca tử vong liên quan đến nhiễm trùng (59%) là do nhiễm trùng bệnh viện. Trong báo cáo đi kèm kết quả nghiên cứu của GARDP, Klebsiella pneumoniae là tác nhân thường gặp nhất phân lập được và thường liên quan đến các nhiễm trùng bệnh viện, vốn đang ngày càng tăng kháng với các phác đồ kháng sinh hiện có.
Nghiên cứu này cũng chỉ ra một xu hướng đáng lo ngại: Các bệnh viện hiện tại thường sử dụng các thuốc ưu tiên cuối cùng như carbapenems do sự kháng kháng sinh cao ở cơ sở của họ. Đáng lưu ý rằng, 15% trẻ sơ sinh mắc nhiễm trùng huyết được cho dùng kháng sinh ưu tiên cuối cùng.
Bác sĩ Nhi khoa Jukia Bielicki, MD, PhD, giảng viên cao cấp, Nhóm nghiên cứu bệnh truyền nhiễm ở trẻ em, Đại học St.George tại London, Anh quốc, và nhà lâm sàng tại Bệnh viện Nhi đại học Basel, Thụy Sĩ, là người cùng tham gia trong nghiên cứu NeoOBS.
Trong một cuộc phỏng vấn với Medscape Medical News, bà giải thích rằng, bên cạnh việc giảm tỷ lệ tử vong, nghiên cứu này còn nhằm giúp quản lý nhiễm trùng tốt hơn để phòng ngừa những tác dụng lâu dài và cải thiện chất lượng cuộc sống của những trẻ còn sống sau mắc nhiễm khuẩn huyết sơ sinh. Bielicki nói: “Nghiên cứu này có thể thay đổi cuộc sống cho rất nhiều đứa trẻ”. “Cải thiện việc chăm sóc không chỉ là đảm bảo rằng đứa trẻ sống sót sau nhiễm trùng huyết, mà còn là đảm bảo những đứa trẻ này có thể trưởng thành và sống một cuộc sống khỏe mạnh.”
Ngoài ra, chỉ một số ít bệnh nhân (13%) được nhận hướng dẫn tiêu chuẩn của WHO trong sử dụng ampicillin và gentamicin
Đồng thời, việc sử dụng những kháng sinh ưu tiên sau cùng như carbapenems và thậm chí polymyxins ở một số cơ sở ở các nước thu nhập trung bình và thấp. Theo báo cáo của GARDP, “Đây là điều đáng báo động và báo trước về cuộc khủng hoảng sắp xảy ra để điều trị nhiễm trùng huyết gây ra bởi những vi khuẩn đa kháng thuốc.”
Có sự đa dạng trong việc kết hợp kháng sinh ở các nước Bangladesh, Brazil, China, Greece, India, Italy, Kenya, South Africa, Thailand, Uganda, và Vietnam, và những sự kết hợp này không được ủng hộ bởi bằng chứng cụ thể nào.
Bielicki nhận xét rằng đã có sự thay đổi trong việc sử dụng kháng sinh phổ rộng. “Ở một quốc gia thu nhập cao, mô hình sử dụng kháng sinh nghiêm ngặt hơn, nhưng sự tiếp xúc với kháng sinh ở trẻ sơ sinh không nhất thiết phải ít đi, nhưng nhìn chung, các thuốc phổ hẹp thường được sử dụng.”
Mặt khác, Châu Phi và Châu Á, các nhà lâm sàng thường sử dụng một kháng sinh phổ rộng theo kinh nghiệm và rất nhanh sau đó, họ cần phải đổi sang kháng sinh khác. Bielicki cũng chỉ ra rằng: “Đôi khi chúng ta không có sẵn những sự thay thế.”
“Các bác sĩ tại địa phương nhận biết rất rõ về vấn đề kháng kháng sinh này trong công việc thường ngày của họ, đặc biệt là ở những trung tâm có tỷ lệ tử vong cao,” Bielicki nói, nhấn mạnh rằng đây không phải lỗi của họ, mà là do “những hạn chế về những phương án có sẵn để điều trị, cho thấy sự ảnh hưởng đến trẻ em trên quy mô toàn cầu của vấn đề kháng kháng sinh.”
Tim Jinks, PhD, Người đứng đầu Chương trình Ưu tiên về Nhiễm trùng kháng thuốc, Wellcome Trust, có những nhận xét về nghiên cứu trong tin nhắn gửi về to Medscape Medical News. “Nghiên cứu này tiếp tục chỉ ra nhu cầu cấp thiết trong việc cải thiện phác đồ cho những trẻ sơ sinh mắc nhiễm khuẩn huyết, đặc biệt là nhu cầu với những kháng sinh mới để có thể khắc phục gánh nặng của nhiễm trùng kháng thuốc do vi khuẩn kháng kháng sinh.”
Ông cho biết thêm: “Nghiên cứu này đóng góp rất lớn vào sự hiểu biết của chúng tôi về gánh nặng của nhiễm trùng huyết sơ sinh ở những nước có thu nhập trung bình và thấp.” “và cũng chỉ ra cách mà các phác đồ có thể được cải thiện để cứu được nhiều mạng sống hơn.”
Nhứng nước thu nhập cao, trung bình và thấp
Nghiên cứu NeoOBS thu thập dữ liệu từ 19 bệnh viện ở 11 nước thu nhập cao, trung bình và thấp và đánh giá kháng sinh nào đang được dùng để điều trị nhiễm khuẩn huyết sơ sinh, cũng như mức độ kháng thuốc kèm theo của chúng. Bielicki cho biết, các trang web bao gồm một số trang ở Ý và Hy Lạp, nơi bắt nguồn của phần lớn dữ liệu về nhiễm khuẩn huyết sơ sinh, và điều này đã giúp cố định dữ liệu.
Nghiên cứu xác định những đứa trẻ nhiễm khuẩn huyết trên lâm sàng trong thời gian 4 tuần và quan sát cách điều trị ở những bệnh nhân này, đặc biệt là đáp ứng với kháng sinh, cũng như là kết quả đầu ra bao gồm hồi phục, tiếp tục nằm viện, hay tử vong. Các nhà nghiên cứu đã lấy mẫu từ các bệnh nhân và nuôi cấy chúng để xác định vi khuẩn nào gây ra nhiễm khuẩn huyết. Đáng lưu ý là, có sự dao động lớn về tỷ lệ tử vong giữa các bệnh viên, từ 1 đến 27%. Bielicky giải thích rằng các nhà nghiên cứu hiện đang tìm hiểu nguyên nhân của sự dao động này. Bà nói, “Có rất nhiều lý do cho điều này, bao gồm các yếu tố hệ thống ví dụ như cách chăm sóc – điều rất phức tạp để có thể đo lường.” “Việc xác định tại sao tỷ lệ tử vong lại thấp trong một hoàn cảnh cụ thể, và tại sao tỷ lệ tử vong lại cao hơn nhiều trong một hoàn cảnh khác với thu nhập tương đương là rất quan trọng.”
Bên cạnh kết quả về tỷ lệ tử vong, Bielicki cũng nhấn mạnh rằng sự phát triển thần kinh thường bị ảnh hưởng ở những trẻ còn sống sau nhiễm khuẩn huyết sơ sinh. “Một bệnh viện có thể có tỷ lệ tử vong thấp, nhưng rất nhiều đứa trẻ có thể có vấn đề về phát triển thần kinh và điều này mang lại ảnh hưởng lâu dài.”
Bà bổ sung, “Mặc dù tỷ lệ tử vong có thê thấp ở một bệnh viện nhất định, nhưng không có nghĩa là tỷ lệ mắc bệnh sẽ thấp”
Các nhà nghiên cứu cũng thu thập các mẫu độc lập từ nhóm trẻ sơ sinh để xác định các kết hợp kháng sinh nào có tác dụng chống lại chống lại các tác nhân gây bệnh. Bielicki nói, “Điều này sẽ giúp chúng tôi xác định được loại kháng sinh nào cần được nghiên cứu thêm.”
Nghiên cứu viên chính, Mike Sharland, MD, cũng từ St. George’s, Đại học London, đồng thời là Trưởng chương trình kháng thuốc kháng sinh tại Penta Child Health Research, cho biết trong một thông cáo báo chí rằng, nghiên cứu đã chỉ ra rằng kháng kháng sinh hiện là một những mối đe dọa lớn đối với sức khỏe trẻ sơ sinh trên toàn cầu. “Hầu như không có nghiên cứu nào về việc phát triển các phương pháp điều trị kháng sinh mới cho trẻ sơ sinh bị nhiễm trùng huyết do nhiễm trùng đa kháng thuốc.”
Ông nhấn mạnh: “Đây là một vấn đề lớn đối với trẻ sơ sinh ở tất cả các quốc gia, bất kể giàu nghèo.”
Thử nghiệm NeoSep-1 so sánh các phác đồ điều trị khác nhau.
Kết quả này đã mở đường cho một thử nghiệm toàn cầu lớn về nhiều loại kháng sinh mới với mục tiêu giảm tỷ lệ tử vong do nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh – thử nghiệm NeoSep1.
Bielicki giải thích, “Đây là một thử nghiệm ngẫu nhiên với thiết kế cụ thể cho phép sắp xếp các phương pháp điều trị khác nhau theo hiệu quả, tính an toàn, và chi phí.”
Các kháng sinh được dùng trên những trẻ sơ sinh (0 – 28 ngày tuổi) mắc nhiễm khuẩn huyết trong nghiên cứu là amikacin, flomoxef – amikacin, hoặc fosfomycin – flomoxef. Tương tự như nghiên cứu NeoOBS, những bệnh nhân được lựa chọn từ khắp nơi trên thế giới, cụ thể là các nước thu nhập trung bình và thấp như Kenya, Nam Phi, và các nước khác ở châu Phi và Đông Nam Á.
Cuối cùng, các nhà nghiên cứu muốn xác định các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được, và tạo ra sự thay đổi trên thực tế. Nhưng Bielicki đã nhanh chóng chỉ ra rằng giải quyết những vấn đề có thể được thay đổi đó là rất khó khăn. “Một số có thể được thay đổi trên lý thuyết, nhưng trên thực tế rất khó để thay đổi chúng. Một yếu tố nguy cơ có thể thay đổi đó là kiểm soát nhiễm trùng, vì vậy khi một vi khuẩn kháng thuốc xuất hiện, chúng ta cần đảm bảo rằng không hoặc có tối thiểu sự lây nhiễm giữa những đứa trẻ.”
Luregn Schlapbach, MD, PhD, Trưởng khoa Chăm sóc Đặc biệt và Sơ sinh, Bệnh viện Nhi đồng Đại học Zurich, Thụy Sĩ, hoan nghênh nghiên cứu, cho biết rằng sự ghi nhận gần đây về nhiễm trùng huyết ở trẻ em và trẻ sơ sinh là một vấn đề cấp bách trên toàn thế giới.
Bà đề cấp đến Quyết định của WHO năm 2017 công nhận rằng nhiễm khuẩn huyết là nguyên nhân tử vong và gây bệnh hàng đầu trên khắp thế giới, ảnh hưởng đến bệnh nhân ở tất cả các lứa tuổi, ở khắp các châu lục và các hệ thống y tế, với phần lớn trong số đó là trẻ em. Bà cho biết trong 1 cuộc phỏng vấn qua email: “Ở thời điểm đó, những hiểu biết của chúng tôi về gánh nặng thực sự của nhiễm khuẩn huyết là có hạn, tương tự như những hiểu biết về dịch bệnh hiện tại.” “Nghiên cứu về Gánh nặng bệnh tật toàn cầu vào năm 2020 đã tiết lộ rằng khoảng một nửa trong số xấp xỉ 50 triệu ca nhiễm khuẩn huyết trên toàn cầu là các bệnh nhi, rất nhiều trong số đó đang ở độ tuổi sơ sinh.”
Schlapbach cho biết, sự thừa nhận chúng thức về nhu cầu rộng rãi này nhấn mạnh về “sự cấp thiết trong việc thiết kế các can thiệp phòng ngừa và điều trị để giảm thiểu gánh nặng bệnh tật này.” “Trong hoàn cảnh này, công việc được chỉ đạo bởi GARDP có tầm quan trọng rất lớn – nó được thiết kế để cải thiện sự hiểu biết của chúng ta về thực trạng hiện nay, các yếu tố nguy cơ và gánh rặng của nhiễm khuẩn huyết sơ sinh ở các nước có thu nhập từ thấp đến trung bình và là điều cần thiết để thiết kế những thử nghiệm những can thiệp như kháng sinh để cải thiện kết quả của bệnh nhân và giảm xuất hiện tình trạng kháng thuốc.”
Bielicki và Schlapbach không tiết lộ mối quan hệ tài chính nào.
32nd European Congress of Clinical Microbiology & Infectious Diseases (ECCMID) 2022: Abstracts 4940, 2127, 1827.
Để biết thêm tin tức, hãy theo dõi Medscape trên Facebook, Twitter, Instagram, và YouTube.