MỚI

Khuyến nghị về vắc-xin thủy đậu (Varicella)

Ngày xuất bản: 03/01/2023

Nguồn: Trung tâm tiêm chủng và bệnh hô hấp quốc gia (National Center for Immunization and Respiratory Diseases – NCIRD)
Đây là bài viết tổng hợp các khuyến nghị quan trọng cần thiết về tiêm phòng thủy đậu, bao gồm: số mũi tiêm, thời điểm tiêm phòng, chống chỉ định, các biện pháp phòng ngừa khi tiêm, các khuyến nghị tiêm phòng dành cho một số nhóm đối tượng đặc thù, khuyến nghị tiêm phòng dành cho nhân viên y tế.  

Ủy ban tham vấn về thực hành tiêm chủng Hoa Kỳ (The Advisory Committee on Immunization Practices – ACIP) khuyến nghị rằng những người khỏe mạnh chưa có bằng chứng miễn dịch với bệnh thủy đậu nên được tiêm phòng căn bệnh này. 

Để biết thêm thông tin, vui lòng tham khảo ACIP recommendations for varicella vaccination (Tạm dịch: Khuyến nghị của ACIP về tiêm phòng thủy đậu).

Tiêm phòng thủy đậu 

Tiêm 02 mũi vắc-xin cơ bản

  • Mũi 1: từ 12 đến 15 tháng tuổi
  • Mũi 2: từ 04 đến 06 tuổi

 Tiêm nhắc lại mũi 2

  • Nếu tiêm mũi 2 sau 07 tuổi, khoảng cách tối thiểu để tiêm nhắc lại là 03 tháng đối với trẻ < 13 tuổi và 04 tuần đối với người ≥ 13 tuổi.

Đối với thanh thiếu niên và người trưởng thành (≥13 tuổi) chưa có miễn dịch với bệnh

  • Tiêm 02 mũi cách nhau từ 04 – 08 tuần
  • Nếu đã tiêm mũi 1 trước đó 08 tuần, có thể tiêm ngay mũi 2 mà không cần tiêm lại mũi 1

Chống chỉ định tiêm phòng thủy đậu

Những đối tượng chống chỉ định với vắc-xin thủy đậu không nên được tiêm phòng vắc-xin này, bao gồm:

  • có tiền sử phản ứng phản vệ/phản ứng dạng phản vệ với gelatin, neomycin, hoặc bất kỳ thành phần nào khác của vắc-xin
  • bị loạn sản máu, bệnh bạch cầu, u lympho hoặc u ác tính gây ảnh hưởng đến tủy xương hoặc hệ bạch huyết
  • bị suy giảm miễn dịch nguyên phát hoặc mắc phải, bao gồm những người bị ức chế miễn dịch liên quan đến suy giảm miễn dịch tế bào và AIDS hoặc ức chế miễn dịch nghiêm trọng liên quan đến nhiễm HIV
  • đang được thực hiện liệu pháp ức chế miễn dịch toàn thân liều cao, kéo dài (≥ 02 tuần), bao gồm sử dụng steroid đường uống liều cao (≥ 2mg/kg trọng lượng cơ thể hoặc tổng cộng 20mg prednisone/ngày hoặc tương đương đối với người nặng > 10kg) hay liệu pháp ức chế miễn dịch khác
  • đang có bệnh đồng mắc tương đối nặng hoặc thật sự nghiêm trọng (tham khảo Precautions for Varicella Vaccination (Tạm dịch: Những lưu ý khi tiêm phòng thủy đậu)
  • có tiền sử gia đình (những người ruột thịt, bao gồm: cha mẹ, anh chị em, con) bị suy giảm miễn dịch di truyền bẩm sinh, trừ khi người đó đã được xác định là có sức đề kháng bình thường
  • đang hoặc có thể đang mang thai. Để biết thêm thông tin, vui lòng tham khảo Guidelines for Vaccinating Pregnant Women: Varicella (Tạm dịch: Hướng dẫn về tiêm phòng cho phụ nữ mang thai: bệnh thủy đậu) và Varicella Vaccination Recommendations for Specific Groups (Tạm dịch: Khuyến nghị về tiêm phòng thủy đậu cho một số nhóm đối tượng đặc thù) 

Ngoài ra, vắc-xin MMRV (Measles, Mumps, Rubella, Varicella – Sởi, Quai bị, Rubella, Thủy đậu) chống chỉ định cho những người bị suy giảm miễn dịch dịch thể (thiếu gamma globulin máu, rối loạn gamma globulin máu) và bị nhiễm HIV.

Một số người chống chỉ định với vắc-xin thủy đậu có thể sản sinh globulin miễn dịch vi-rút Varicella Zoster sau khi tiếp xúc với bệnh thủy đậu hoặc bệnh Zona (Herpes zoster). Để biết thêm thông tin, vui lòng tham khảo Managing People at Risk for Severe Varicella. (Tạm dịch: Xử trí người có nguy cơ mắc bệnh thủy đậu nặng).

Những lưu ý khi tiêm phòng thủy đậu

Đối với người đang mắc bệnh cấp tính

  • Những người đang mắc bệnh cấp tính nghiêm trọng, bao gồm cả bệnh lao thể hoạt động chưa được điều trị, nên hoãn việc tiêm phòng cho đến khi hồi phục. Quyết định tạm hoãn này phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng và nguyên nhân của bệnh.

Đối với người bị giảm tiểu cầu 

  • Người bị giảm tiểu cầu vẫn có thể tiêm phòng nếu đó là vắc-xin thủy đậu kháng nguyên đơn (Varivax®).
  • Khi tiêm phòng cho trẻ bị giảm tiểu cầu bằng vắc-xin kết hợp MMRV (ProQuad®), nhân viên y tế nên tham khảo kỹ Advisory Committee on Immunization Practices recommendation on MMR vaccination (Tạm dịch: Khuyến nghị về tiêm phòng MMR của Ủy ban tham vấn về thực hành tiêm chủng Hoa Kỳ).

Đối với người nhận các chế phẩm máu

  • Nên tránh sử dụng salicylat trong vòng 06 tuần sau khi tiêm phòng thủy đậu, do việc sử dụng aspirin có liên quan đến hội chứng Reye sau khi nhiễm bệnh thủy đậu, cũng như nguy cơ tiềm ẩn của hội chứng Reye nếu một người sử dụng aspirin sau khi tiêm phòng thủy đậu.
  • Những người đã tiêm phòng thủy đậu không nên nhận các chế phẩm máu trong vòng 14 ngày sau khi tiêm, trừ khi chế phẩm máu mang lại nhiều lợi ích hơn nhu cầu phòng tránh rủi ro tiêm phòng.

Đối với những người đang sử dụng thuốc Salicylat

  • Nên tránh sử dụng thuốc salicylat trong vòng 06 tuần sau khi tiêm phòng thủy đậu, do việc sử dụng aspirin có liên quan đến hội chứng Reye sau khi nhiễm bệnh thủy đậu, cũng như nguy cơ tiềm ẩn của hội chứng Reye nếu một người sử dụng aspirin sau khi tiêm phòng thủy đậu.
  • Cần thận trọng khi tiêm phòng cho trẻ em đang sử dụng salicylat. Mặc dù vậy, hiện vẫn chưa có báo cáo nào về tác dụng phụ khi tiêm cho đối tượng này.
  • Trẻ em bị viêm khớp dạng thấp hay các tình trạng khác cần sử dụng aspirin điều trị nên được theo dõi chặt chẽ sau khi tiêm phòng.

Để biết thêm thông tin, vui lòng tham khảo  Contraindications and Precautions (Tạm dịch: Các chống chỉ định và Những lưu ý khi tiêm phòng thủy đậu).

Khuyến nghị về tiêm phòng thủy đậu cho một số nhóm đối tượng đặc thù

Vắc-xin thủy đậu được khuyến nghị tiêm cho những người chưa có bằng chứng miễn dịch với bệnh thủy đậu thuộc các nhóm sau đây: 

Những đối tượng bị nhiễm HIV

  • Trẻ nhiễm HIV ≥ 12 tháng tuổi có tỷ lệ tế bào lympho-T CD4+ là ≥ 15%
  • Người bị nhiễm HIV > 08 tuổi có số lượng tế bào lympho T CD4+ là ≥ 200 tế bào/µL
    • Dữ liệu liên quan đến việc tiêm phòng thủy đậu cho thanh thiếu niên và người lớn bị nhiễm HIV vẫn còn hạn chế. Khả năng tạo miễn dịch của những đối tượng này có thể thấp hơn so với trẻ từ 01 – 08 tuổi. Lợi ích thu được khi tiêm phòng thủy đậu sẽ cao hơn rủi ro mắc bệnh nặng do nhiễm thủy đậu loại hoang dã. Do đó, có thể cân nhắc tiêm phòng cho những đối tượng này.
    • Sau khi tiêm phòng, nếu người bị nhiễm HIV phát sinh các bệnh lý lâm sàng, có thể sử dụng acyclovir để ngăn ngừa bệnh nặng.

Những đối tượng bị nhiễm HIV đủ điều kiện để tiêm phòng nên tiêm đủ 02 mũi vắc-xin thủy đậu đơn kháng nguyên (Varivax®) cách nhau 03 tháng.

Trẻ em, thanh thiếu niên hoặc người lớn bị nhiễm HIV không nên tiêm vắc-xin kết hợp của bệnh sởi, quai bị, rubella và thủy đậu (ProQuad®).

Những đối tượng có thể bị suy giảm miễn dịch

  • Những người bị suy giảm khả năng miễn dịch dịch thể
  • Những người đang sử dụng steroid toàn thân để điều trị một số tình trạng nhất định, chẳng hạn như hen suyễn, và những người đang dùng steroid < 2mg/kg trọng lượng cơ thể hoặc tổng lượng prednisone < 20mg/ngày hoặc tương đương và không bị suy giảm miễn dịch
    • Có rất ít dữ liệu về nghi vấn liệu những người sử dụng steroid dạng hít, xịt mũi hoặc bôi tại chỗ có thể được tiêm phòng một cách an toàn hay không. Tuy nhiên, dựa trên kinh nghiệm lâm sàng, những người này nhìn chung có thể chịu đựng tốt việc tiêm phòng.
    • Một số chuyên gia khuyến nghị ngừng sử dụng steroid trong khoảng 02 – 03 tuần sau khi tiêm phòng nếu điều này giúp bảo đảm an toàn khi tiêm phòng.
  • Những người dùng steroid toàn thân liều cao (≥ 2mg/kg/ngày hoặc ≥ 20mg prednisone/ngày hoặc tương đương, trong ≥ 02 tuần) nếu đã ngừng điều trị steroid trong ≥ 01 tháng
  • Những người mắc bệnh bạch cầu, ung thư hạch hoặc các bệnh ác tính khác đang trong quá trình thuyên giảm và không hóa trị trong vòng 03 tháng
    • Trẻ em mắc bệnh bạch cầu đang trong quá trình thuyên giảm và chưa có bằng chứng miễn dịch với bệnh thủy đậu chỉ được phép tiêm phòng khi có sự hướng dẫn của chuyên gia và có thể được áp dụng liệu pháp kháng vi-rút ngay khi xuất hiện biến chứng.

Những người có thể bị suy giảm miễn dịch không nên tiêm vắc-xin kết hợp của bệnh sởi, quai bị, rubella và thủy đậu (ProQuad®).

Các mối liên hệ trong gia đình của những đối tượng bị suy giảm miễn dịch

  • Những người khỏe mạnh đã tiêm phòng thủy đậu có thể bảo vệ những người bị suy giảm miễn dịch tránh tiếp xúc với căn bệnh này
  • Nếu người được tiêm phòng bị phát ban liên quan đến vắc-xin, họ nên tránh xa những người bị suy giảm miễn dịch, cũng như những người chưa có bằng chứng miễn dịch với bệnh thủy đậu cho đến khi tất cả các tổn thương biến mất hoặc không có tổn thương mới xuất hiện trong vòng 24 giờ.

Phụ nữ sau sinh và đang cho con bú chưa có miễn dịch

Phụ nữ đang hoặc có thể đang mang thai không nên tiêm phòng thủy đậu. Để biết thêm thông tin, vui lòng tham khảo Guidelines for Vaccinating Pregnant Women: Varicella (Tạm dịch: Hướng dẫn về tiêm phòng cho phụ nữ mang thai: bệnh thủy đậu) và Varicella Vaccination Recommendations for Specific Groups (Tạm dịch: Khuyến nghị về tiêm phòng thủy đậu cho một số nhóm đối tượng đặc thù)

Phụ nữ sau sinh nên tiêm đủ 02 mũi vắc-xin thủy đậu

  • Mũi 1 nên được tiêm sau khi sinh và trước khi xuất viện. Mũi 2 nên được tiêm trong vòng 04 – 08 tuần sau mũi 1. Mũi 2 có thể được tiêm khi tái khám sau sinh (06 – 08 tuần sau sinh).
  • Không nên chậm trễ việc tiêm phòng cho phụ nữ sau sinh vì lý do đang cho con bú.
  • Phụ nữ sau khi được tiêm phòng thủy đậu vẫn có thể cho con bú.

Khuyến nghị tiêm phòng thủy đậu cho nhân viên y tế

Ủy ban tham vấn về thực hành tiêm chủng Hoa Kỳ (Advisory Committee on Immunization Practices – ACIP), với sự hỗ trợ từ Ủy ban tư vấn thực hành kiểm soát nhiễm trùng bệnh viện (Hospital Infection Control Practices Advisory Committee – HICPAC) khuyến nghị các cơ sở chăm sóc sức khỏe nên đảm bảo rằng tất cả nhân viên y tế đều có bằng chứng miễn dịch với bệnh thủy đậu. Những người chưa có miễn dịch nên được tiêm đủ 02 mũi vắc-xin cách nhau từ 04 – 08 tuần, nếu đã tiêm mũi 1 trước đó, nên tiêm mũi 2 cách mũi 1 tối thiểu 04 tuần.

Để biết thêm thông tin, vui lòng tham khảo

Kiểm tra miễn dịch

Nhân viên y tế chưa có bằng chứng miễn dịch với bệnh thủy đậu có thể được xét nghiệm sàng lọc huyết thanh trước khi tiêm phòng. Việc này giúp tiết kiệm từ 70% – 90% chi phí vì nhiều người trưởng thành không nhớ rõ bản thân từng mắc thủy đậu nhưng thực tế đã có sẵn kháng thể trong máu.

ACIP hay HICPAC không khuyến khích việc nhân viên y tế đi xét nghiệm kiểm tra khả năng miễn dịch thủy đậu sau khi tiêm đủ 02 mũi. Các xét nghiệm dịch vụ không đủ nhạy để có thể luôn phát hiện ra kháng thể sau khi tiêm phòng. Giấy xác nhận tiêm đủ 02 mũi vắc-xin thủy đậu chính là bằng chứng thay thế cho kết quả xét nghiệm huyết thanh sau này.     

Sự lây truyền của vi-rút trong vắc-xin

Rất hiếm khi những người được tiêm phòng có thể lây lan vi-rút trong vắc-xin thủy đậu, đặc biệt nếu họ không bị phát ban. Trên toàn thế giới, kể từ khi chương trình tiêm phòng thủy đậu bắt đầu, chỉ có 11 người khỏe mạnh được tiêm phòng (06 người bị phát ban dạng thủy đậu và 05 người bị bệnh Zona (Herpes zoster) sau khi tiêm phòng) được ghi nhận là có làm lây lan vi-rút trong vắc-xin cho người khác. Tất cả những người được tiêm vắc-xin đều bị phát ban sau khi tiêm. Kết quả là 13 người, bao gồm các thành viên trong hộ gia đình và những người tại cơ sở chăm sóc sức khỏe dài hạn, đều bị nhiễm vi-rút thủy đậu trong vắc-xin. Một trường hợp khác có cơ chế lây truyền không phải trực tiếp từ người nhận vắc-xin, mà nhiều khả năng là do tiếp xúc với khí dung vắc-xin trong quá trình chuẩn bị tiêm.

Đến nay vẫn chưa có dữ liệu nào đề cập đến sự lây truyền thủy đậu từ nhân viên y tế đã được tiêm phòng sang người khác.

Hạn chế trong công việc

Nhân viên y tế mới được tiêm phòng không bắt buộc phải hạn chế hoạt động trong công việc. Tuy nhiên, nhân viên y tế bị phát ban giống thủy đậu sau khi tiêm phòng nên tránh xa những người chưa có bằng chứng miễn dịch và có nguy cơ mắc bệnh thủy đậu nặng. Họ nên đợi đến khi tất cả các tổn thương biến mất (đóng vảy). Nếu các tổn thương không đóng vảy (chỉ là dát và sần), họ nên đợi cho đến khi không có tổn thương mới xuất hiện trong vòng 24 giờ.

Tiêm phòng thủy đậu sau phơi nhiễm

Ủy ban tham vấn về thực hành tiêm chủng Hoa Kỳ (Advisory Committee on Immunization Practices – ACIP) khuyến cáo rằng sau khi phơi nhiễm với bệnh thủy đậu hoặc bệnh Zona (Herpes zoster), những người chưa có bằng chứng miễn dịch và đủ điều kiện tiêm phòng nên tiêm phòng thủy đậu.

  • Tốt nhất nên tiêm trong vòng 03 – 05 ngày sau khi phơi nhiễm với bệnh. Việc này có thể giúp ngăn ngừa bệnh thủy đậu hoặc làm cho bệnh ít nghiêm trọng hơn. 
  • Ngay cả khi đã qua hơn 05 ngày sau khi phơi nhiễm, vẫn nên tiêm vắc- xin. Việc này giúp bảo vệ người tiếp xúc chống lại bệnh thủy đậu nếu bị phơi nhiễm một lần nữa trong tương lai và không bị nhiễm trùng bởi lần phơi nhiễm trước đó. 

Những người đã được tiêm mũi 1 trước đó nên tiêm mũi 2 trong khoảng thời gian thích hợp. Để biết thêm thông tin, vui lòng tham khảo About the Varicella Vaccines (Tạm dịch: Giới thiệu về vắc-xin thủy đậu).

Hiện chưa có tài liệu nào đề cập đến việc sử dụng vắc- xin kết hợp của bệnh sởi, quai bị, rubella và thủy đậu (ProQuad®) để tiêm phòng sau phơi nhiễm.

Tiêm phòng thủy đậu được khuyến cáo nhằm kiểm soát các đợt bùng phát dịch. Những người chưa có bằng chứng miễn dịch nên tiêm mũi 1 hoặc mũi 2 nếu cần. Để biết thêm thông tin về các đợt bùng phát bệnh thủy đậu, vui lòng tham khảo Outbreak Identification, Investigation, and Control (Tạm dịch: Xác định, điều tra và kiểm soát bùng phát dịch)

Tham khảo Managing People at Risk of Severe Varicella (Tạm dịch: Xử trí người có nguy cơ mắc bệnh thủy đậu nặng) để biết thêm thông tin về các lựa chọn phòng ngừa và điều trị cho những người có nguy cơ mắc bệnh thủy đậu nặng không thể tiêm phòng.  

Để đọc chi tiết bài nghiên cứu, vui lòng truy cập tại đây.

facebook
3

Bình luận0

Đăng ký
Thông báo về
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận

Bài viết cùng chuyên gia

tra-cuu-thuoc

THÔNG TIN THUỐC

TRA CỨU NGAY