Chẩn đoán và điều trị đau thắt lưng
Đau thắt lưng là một bệnh rất phổ biến, đặc biệt là ở người lớn tuổi, bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng lao động và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Bài này cung cấp những bằng chứng về những phương pháp điều bị bằng ngoại khoa so với nội khoa.
Tác giả: Paul G. Matz, MD; William C. Watters III, MD, MS
Thành viên: Thiru M. Annaswamy, MD, MA; Steven W. Hwang, MD; Cumhur Kilincer, MD, PhD; RJ Meagher, MD; Anil K. Sharma, MD; Kris E. Radcliff, MD,
Đại diện bên liên quan: Học viện Bác sĩ Phẫu thuật chỉnh hình Hoa Kỳ
1. Câu hỏi về ngoại khoa 1
Nội dung bài viết
Ở những bệnh nhân bị đau thắt lưng, liệu điều trị ngoại khoa so với điều trị nội khoa / can thiệp đơn thuần có làm giảm thời gian đau, giảm cường độ đau, cải thiện chức năng và cải thiện tỷ lệ trở lại làm việc không?
Các bài tổng quan trong y văn không đưa ra được nghiên cứu nào để giải quyết một cách thỏa đáng câu hỏi này.
Tường thuật của nhóm tác giả: Một số nghiên cứu thường xuyên được tham khảo đánh giá điều trị ngoại khoa so với điều trị nội khoa / can thiệp đã bị loại trừ vì chúng không đáp ứng các tiêu chí thu nhận bệnh nhân. Các nhóm bệnh nhân được điều trị ngoại khoatrước đó hoặc bị đau dưới khớp gối mà không có phân tích phân nhóm là những yếu tố chính để loại bỏ các nghiên cứu này.
Hướng nghiên cứu trong tương lai
Nhóm tác giả khuyến cáo thực hiện thêm các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng so sánh điều trị ngoại khoa với điều trị nội khoa / can thiệp ở những bệnh nhân chỉ bị đau thắt lưng (LBP) mà không có tiền sử phẫu thuật thắt lưng trước đó.
2. Câu hỏi về ngoại khoa 2
Ở những bệnh nhân bị đau thắt lưng, có những yếu tố tiên lượng nào xác định lợi ích của điều trị ban đầu bằng ngoại khoa so với điều trị nội khoa / can thiệp?
Các bài tổng quan trong y văn không đưa ra được nghiên cứu nào để giải quyết một cách thỏa đáng câu hỏi này.
Hướng nghiên cứu trong tương lai
Nhóm tác giả khuyến cáo thực hiện các nghiên cứu quan sát dựa trên cơ sở dữ liệu lớn, chẳng hạn như các nghiên cứu đa trung tâm, tìm kiếm các đặc điểm lâm sàng liên quan đến các yếu tố tiên lượng cho các lựa chọn điều trị ở bệnh nhân chỉ đau thắt lưng.
Các khuyến cáo được phát triển dựa trên một định nghĩa cụ thể, tiêu chí thu nhận / loại trừ và các tài liệu loại trừ các tình trạng như sự mất chức năng thần kinh hoặc đau chân dưới khớp gối, trong số những bệnh khác. Với các tiêu chí loại trừ, các khuyến cáo trong hướng dẫn này đề cập đến việc chăm sóc một phân nhóm nhỏ của bệnh đau thắt lưng thay vì toàn bộ bệnh nhân bệnh đau thắt lưng. Hướng dẫn lâm sàng này không nhằm mục đích là một phác đồ điều trị cố định; có lẽ sẽ có những bệnh nhân cần điều trị nhiều hơn hoặc ít hơn so với những gì được ghi trong hướng dẫn này. Không nên nghĩ rằng những hướng dẫn lâm sàng này bao gồm tất cả các phương pháp chăm sóc thích hợp hoặc bác bỏ các phương pháp chăm sóc được chấp nhận cũng cho kết quả tương tự. Bác sĩ và bệnh nhân sẽ đưa ra quyết định cuối cùng liên quan đến bất kỳ thủ thuật hoặc phương pháp điều trị cụ thể nào dựa trên hoàn cảnh của bệnh nhân cũng như nhu cầu và nguồn lực cụ thể đối với địa phương hoặc cơ sở.
3. Câu hỏi về ngoại khoa 3
Ở những bệnh nhân trải qua phẫu thuật kết hợp để chữa đau thắt lưng, kỹ thuật kết hợp dẫn đến kết quả tốt nhất về mặt: giảm thời gian đau, giảm cường độ đau, cải thiện chức năng và tăng tỷ lệ trở lại với công việc?
- Phẫu thuật kết hợp phía bên – sau không có cố định trong so với
- Phẫu thuật kết hợp phía bên – sau theo mặt phẳng ngang với cố định trong so với
Kỹ thuật kết hợp mặt trước của thân sống:
- Cố định cột sống và hàn khớp liên thân đốt qua lỗ liên hợp (TLIF) so với
- Kết hợp theo chu vi (phía trước thân đốt sống, kỹ thuật bên)
Không có đủ bằng chứng để đưa ra khuyến cáo hoặc chống lại một kỹ thuật kết hợp cụ thể để điều trị đau thắt lưng. Hạng đề xuất: I
Madan và cộng sự đã mô tả một nghiên cứu so sánh trên 74 bệnh nhân đau thắt lưng được kết hợp theo chu vi bằng dụng cụ thông qua phương pháp tiếp cận phía sau (PLIF và kết hợp sau bên, n = 35) hoặc kết hợp phía trước thân đốt sống thắt lưng bằng dụng cụ (ALIF) bằng cách sử dụng lồng móng ngựa Hartshill (n = 39). Mặc dù bài báo nói rằng dữ liệu nghiên cứu được thu thập theo cách tiến cứu, nhưng vẫn chưa rõ liệu nghiên cứu có được thực hiện theo cách này hay không. Do đó, nhóm làm việc đã đánh giá nghiên cứu này như một phân tích hồi cứu. Kết quả được đánh giá bằng cách sử dụng Chỉ số Khuyết tật Oswestry (ODI), bảng câu hỏi chất lượng cuộc sống (chủ quan), sơ đồ vị trí đau, thang điểm đau (VAS), lợi ích khuyết tật, tình trạng bù trừ và hồ sơ tâm lý sử dụng Bảng câu hỏi nhận thức đã được cải tiến (MSPQ) và Thang điểm Zung đánh giá tràm cảm (ZDS). Tại thời điểm theo dõi, 74% bệnh nhân trong nhóm kết hợp theo chu vi và 72% trong nhóm ALIF cho thấy kết quả khả quan (p <0,05) và 80% bệnh nhân trong cả hai nhóm báo cáo kết quả hài lòng theo tiêu chí ODI. Tỷ lệ trở lại làm việc, khả năng bù trừ và tỷ lệ tàn tật cũng tương tự nhau giữa các nhóm. Các tác giả đã báo cáo 4 biến chứng trong nhóm kết hợp theo chu vi, bao gồm 3 trường hợp nhiễm trùng và 1 bệnh nhân bị đau dai dẳng ở vị trí cắt xương mào chậu trong 4 tháng. Tỷ lệ biến chứng trong nhóm ALIF tương tự với nhiễm trùng ở 2 bệnh nhân và đau thần kinh tọa nặng do tác động từ vít cần một phẫu thuật bổ sung ở 1 bệnh nhân.
Các tác giả kết luận rằng ALIF với Hartshill lồng móng ngựa và kết hợp theo chu vi bằng cách sử dụng thiết bị PLIF đều được chấp nhận trong điều trị đau lưng do đĩa đệm. Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng trị liệu Cấp độ III cho thấy không có sự khác biệt trong kết quả giữa kết hợp theo chu vi và ALIF bằng cách sử dụng Hartshill cố định sau 2 năm theo dõi.
Vamvaij và cộng sự (2) thực hiện 1 nghiên cứu hồi cứu về những kỹ thuật kết hợp khác nhau ở 56 bệnh nên đau thắt lưng mạn tính, Bệnh nhân được điều trị bằng kỹ thuật kết hợp sau – bên (PLF) với mảnh ghép tự thân được lấy từ mào chậu và dùng vít cố định xuyên mảnh sống đối bên (nhóm 1, n=16), kết hợp phía trược thân đốt sống theo đường sau phúc mạc (ALIF) (nhóm 2, n=11), PLF với mảnh ghép từ thân từ mào chậu với vít dài cố định tại cuốn sống (nhóm 2, n-13), hoặc ALIF với lồng có ren và kết hợp mặt sau với mảnh ghép từ mào chậu (Nhóm 4, n = 16) và được theo dõi trong thời gian trung bình là 4,2 năm. Cường độ đau, nhu cầu dùng thuốc, khả năng hoạt động và tình trạng làm việc được đánh giá theo thang điểm 4 (xuất sắc, tốt, khá, kém). Bảng câu hỏi về cơn đau Dallas (DPQ) được sử dụng để đánh giá cường độ của cơn đau trong các hoạt động hàng ngày. Tại thời điểm theo dõi, kết hợp rắn đã đạt được ở 50% bệnh nhân ở Nhóm 1, 60% ở Nhóm 2, 69% ở Nhóm 3 và 88% ở Nhóm 4. Ở Nhóm 1-4, kết quả hài lòng đạt được lần lượt là 38%, 36%, 46% và 63%. Nhóm 4 có điểm DPQ thấp hơn đáng kể so với Nhóm 1 và 2 (p <0,05) khi theo dõi. 31% bệnh nhân ở Nhóm 1 và 2 và 38% ở Nhóm 3 và 4 đã trở lại làm việc. Không có sự khác biệt về tình trạng bù trừ và thời gian mất chức năng giữa những bệnh nhân có thể và không thể trở lại làm việc trong bất kỳ nhóm nào. Tỷ lệ biến chứng không được thảo luận. Các tác giả kết luận rằng ALIF sử dụng lồng có kết hợp mặt sau mang lại tỷ lệ kết dính, giảm đau và thành công trên lâm sàng cao nhất.
Về mặt phê bình, nghiên cứu này có phân tích thống kê hạn chế và số lượng người tham gia trong phân nhóm nhỏ. Do những hạn chế này, nhóm tác giả đã hạ cấp nghiên cứu từ mức III xuống mức IV. Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng trị liệu mức IV cho thấy kỹ thuật kết hợp theo chu vi cho kết quả tốt hơn so với cả PLF và ALIF có dụng cụ với ghép đồng loài, nhưng kết quả tương tự với PLF với ghép tự thân được bổ sung thanh vít cố định ở cuống sống.
Hướng nghiên cứu trong tương lai
Nhóm nghiên cứu đề xuất thực hiện:
- Các nghiên cứu quan sát dựa cơ sở dữ liệu lớn, chẳng hạn như các nghiên cứu đa trung tâm, đánh giá các kỹ thuật kết hợp khác nhau ở bệnh nhân chỉ đau thắt lưng.
- Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đánh giá các kỹ thuật kết hợp khác nhau chỉ ở bệnh nhân đau thắt lưng.
- Các nghiên cứu kinh tế đánh giá hiệu quả chi phí của các kỹ thuật kết hợp khác nhau ở bệnh nhân chỉ bị đau thắt lưng. Do không có nhiều tài liệu ủng hộ tính ưu việt của kỹ thuật hợp nhất ở bệnh nhân đau thắt lưng,, các nghiên cứu phân tích về hiệu quả kinh tế là cần thiết để khảo sát thêm chi phí liên quan đến các kỹ thuật khác nhau.
Tài liệu tham khảo
- Madan SS, Boeree NR. Comparison of instrumented anterior interbody fusion with instrumented circumferential lumbar fusion. Eur Spine J. Dec 2003;12(6):567- 575.
- Vamvanij V, Fredrickson BE, Thorpe JM, Stadnick ME, Yuan HA. Surgical treatment of internal disc disruption: an outcome study of four fusion techniques. J Spinal Disord. Oct 1998;11(5):375-3
4. Câu hỏi về ngoại khoa 4
Ở những bệnh nhân được phẫu thuật kết hợp vì đau thắt lưng, các kết quả lâm sàng, bao gồm thời gian đau, cường độ đau, kết quả chức năng và tình trạng trở lại lvới công việc có khác biệt đối với phương pháp kết hợp nhiều cấp so với kết hợp đơn cấp không?
Các bài tổng quan trong y văn không đưa ra được nghiên cứu nào để giải quyết một cách thỏa đáng câu hỏi này.
Hướng nghiên cứu trong tương lai:
Nhóm tác giả đề xuất thực hiện:
- Các nghiên cứu quan sát cơ sở dữ liệu lớn, chẳng hạn như nghiên cứu đa trung tâm, đánh giá các kỹ thuật kết hợp khác nhau, bao gồm cả kỹ thuật kết hợp đơn và nhiều cấp, ở những bệnh nhân chỉ bị đau thắt lưng.
- Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đánh giá các kỹ thuật hợp nhất khác nhau, bao gồm cả kỹ thuật kết hợp đơn và nhiều cấp, ở những bệnh nhân chỉ bị đau thắt lưng.
5. Câu hỏi về ngoại khoa 5
Ở những bệnh nhân trải qua phẫu thuật kết hợp vì đau thắt lưng, có bằng chứng hình ảnh học của phương pháp kết hợp tương quan với việc giảm thời gian đau, giảm cường độ đau, cải thiện chức năng chức năng của điều trị và cải thiện tỷ lệ đi trở lại với công việc không?
Không có đủ bằng chứng để đưa ra khuyến cáo về việc liệu có bằng chứng hình ảnh học nào về kỹ thuật kết hợp có tương quan với kết quả lâm sàng tốt hơn ở bệnh nhân đau thắt lưng hay không. Hạng đề xuất: I
Vamvaij và cộng sự(2) thực hiện 1 nghiên cứu hồi cứu về những kỹ thuật kết hợp khác nhau ở 56 bệnh nên đau thắt lưng mạn tính, Bệnh nhân được điều trị bằng kỹ thuật kết hợp sau – bên (PLF) với mảnh ghép tự thân được lấy từ mào chậu và dùng vít cố định xuyên mảnh sống đối bên (nhóm 1, n=16), kết hợp phía trước thân đốt sống theo đường sau phúc mạc (ALIF) (nhóm 2, n=11), PLF với mảnh ghép tự thân từ mào chậu với vít dài cố định tại cuốn sống (nhóm 2, n=13), hoặc ALIF với lồng có ren và kết hợp mặt sau với mảnh ghép từ mào chậu (Nhóm 4, n = 16) và được theo dõi trong thời gian trung bình là 4,2 năm. Cường độ đau, nhu cầu dùng thuốc, khả năng hoạt động và tình trạng làm việc được đánh giá theo thang điểm 4 (xuất sắc, tốt, khá, kém). Bảng câu hỏi về cơn đau Dallas (DPQ) được sử dụng để đánh giá cường độ của cơn đau trong các hoạt động hàng ngày. Tại thời điểm theo dõi, kết hợp rắn đã đạt được ở 50% bệnh nhân ở Nhóm 1, 60% ở Nhóm 2, 69% ở Nhóm 3 và 88% ở Nhóm 4.
50% bệnh nhân đạt được , kết hợp rắn hài lòng với kết quả so với chỉ 28% bệnh nhân bị khớp giả (p<0.05). Tỷ lệ trở lại với công việc cũng cao hơn 1 cách có ý nghĩa thống kê ở bệnh nhân kết hợp thành công so với người không được kết hợp, 43% so với 17% (p<0.05). Ở Nhóm 1-4, kết quả hài lòng đạt được lần lượt là 38%, 36%, 46% và 63%.
Nhóm 4 có điểm DPQ thấp hơn đáng kể so với Nhóm 1 và 2 (p <0,05) khi theo dõi. 31% bệnh nhân ở Nhóm 1 và 2 và 38% ở Nhóm 3 và 4 đã trở lại làm việc. Không có sự khác biệt về tình trạng bù trừ và thời gian mất chức năng giữa những bệnh nhân có thể và không thể trở lại làm việc trong bất kỳ nhóm nào. Tỷ lệ biến chứng không được thảo luận. Các tác giả kết luận rằng ALIF sử dụng lồng có kết hợp mặt sau mang lại tỷ lệ kết dính, giảm đau và thành công trên lâm sàng cao nhất.
Về mặt phê bình, nghiên cứu này có phân tích thống kê hạn chế và số lượng người tham gia trong phân nhóm nhỏ. Do những hạn chế này, nhóm tác giả đã hạ cấp nghiên cứu từ mức III xuống mứcIV. Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng trị liệu mức IV về mối tương quan giữa kết hợp rắn và kết quả cải thiện chức năng.
Hướng nghiên cứu trong tương lai
Nhóm tác giả đề xuất thực hiện:
- Các nghiên cứu quan sát dựa trên cơ sở dữ liệu lớn, chẳng hạn như các nghiên cứu đa trung tâm, đánh giá mối tương quan giữa bằng chứng hình ảnh học với kết quả chức năng và lâm sàng ở bệnh nhân chỉ đau thắt lưng.
- Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng kiểm tra mối tương quan giữa bằng bằng chứng hình ảnh học với kết quả chức năng và lâm sàng ở bệnh nhân chỉ đau thắt lưng.
Tài liệu tham khảo
- Vamvanij V, Fredrickson BE, Thorpe JM, Stadnick ME, Yuan HA. Surgical treatment of internal disc disruption: an outcome study of four fusion techniques. J Spinal Disord. Oct 1998;11(5):375-382.
6. Câu hỏi về ngoại khoa 6
Ở những bệnh nhân trải qua phẫu thuật kết hợp vì đau thắt lưng, việc sử dụng các chất kích thích tăng trưởng xương (so với chỉ kết hợp đơn thuần) có làm giảm thời gian đau, giảm cường độ đau, cải thiện chức năng và tăng tỷ lệ trở lại làm việc hay không?
Các bài tổng quan trong y văn không đưa ra được nghiên cứu nào để giải quyết một cách thỏa đáng câu hỏi này.
Hướng nghiên cứu trong tương lai
Nhóm tác giả đề xuất thực hiện:
- Các nghiên cứu quan sát dựa trên cơ sở dữ liệu lớn, chẳng hạn như các nghiên cứu đa trung tâm, đánh giá việc sử dụng thuốc kích thích tăng trưởng xương ở bệnh nhân chỉ đau thắt lưng.
- Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đánh giá việc sử dụng thuốc kích thích tăng trưởng xương ở bệnh nhân chỉ đau thắt lưng.
7. Câu hỏi về ngoại khoa 7
Ở những bệnh nhân trải qua phẫu thuật kết hợp vì đau thắt lưng, việc sử dụng BMP (Bone morphogenetic protein) (so với kết hợp đơn thuần) có làm giảm thời gian đau, giảm cường độ đau, cải thiện chức năng và tăng tỷ lệ trở lại làm việc hay không?
Các bài tổng quan trong y văn không đưa ra được nghiên cứu nào để giải quyết một cách thỏa đáng câu hỏi này.
Hướng nghiên cứu trong tương lai
Nhóm tác giả đề xuất thực hiện:
- Các nghiên cứu quan sát dựa trên cơ sở dữ liệu lớn, chẳng hạn như các nghiên cứu đa trung tâm, đánh giá việc sử dụng BMP ở bệnh nhân chỉ đau thắt lưng.
- Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đánh giá việc sử dụng BMP ở bệnh nhân chỉ đau thắt lưng.
8. Câu hỏi về ngoại khoa 8
Ở những bệnh nhân trải qua phẫu thuật kết hợp vì đau thắt lưng, việc sử dụng kỹ thuật kết hợp xâm lấn tối thiểu có làm giảm thời gian đau, giảm cường độ đau, cải thiện chức năng và tăng tỷ lệ trở lại làm việc hay không?
Các bài tổng quan trong y văn không đưa ra được nghiên cứu nào để giải quyết một cách thỏa đáng câu hỏi này.
Hướng nghiên cứu trong tương lai
Nhóm tác giả đề xuất thực hiện:
- Các nghiên cứu quan sát dựa trên cơ sở dữ liệu lớn, chẳng hạn như các nghiên cứu đa trung tâm, đánh giá việc sử dụng kỹ thuật kết hợp xâm lấn tối thiểu P ở bệnh nhân chỉ đau thắt lưng.
- Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đánh giá việc sử dụng kỹ thuật kết hợp xâm lấn tối thiểu ở bệnh nhân chỉ đau thắt lưng.
9. Câu hỏi về ngoại khoa 9
Bệnh nhân nội trú phẫu thuật điều trị đau thắt lưng, hệ thống bảo tồn chuyển động (phục hình đĩa đệm và hệ thống cố định động) có làm giảm thời gian đau, giảm cường độ đau, cải thiện chức năng và tăng tỷ lệ trở lại làm việc so với phẫu thuật hợp nhất hay không?
Các bài tổng quan trong y văn không đưa ra được nghiên cứu nào để giải quyết một cách thỏa đáng câu hỏi này.
Tường thuật nhóm tác giả: Một số nghiên cứu thường xuyên được tham khảo so sánh hệ thống bảo tồn chuyển động với kỹ thuật kết hợp đã bị loại trừ vì chúng không đáp ứng các tiêu chí thu nhận bệnh nhân. Các nhóm bệnh nhân được điều trị ngoại khoatrước đó hoặc bị đau dưới khớp gối mà không có phân tích phân nhóm là những yếu tố chính để loại bỏ các nghiên cứu này.
Hướng nghiên cứu trong tương lai
Nhóm tác giả không có bất kỳ khuyến nghị nào cho các nghiên cứu trong tương lai về chủ đề này.
10. Câu hỏi về ngoại khoa 10
Bệnh nhân nội trú phẫu thuật điều trị đau thắt lưng, hệ thống bảo tồn chuyển động (phục hình đĩa đệm và hệ thống cố định động) có dẩn đến giảm tỷ lệ mắc bệnh phân đoạn liền kề có triệu chứng?
Các bài tổng quan trong y văn không đưa ra được nghiên cứu nào để giải quyết một cách thỏa đáng câu hỏi này.
Hướng nghiên cứu trong tương lai
Nhóm tác giả khuyến cáo thực hiện thự nhiêm ngẫu nhiên có đối chứng để đánh giá hiệu quã của hệ thống bảo tồn vận động cho dự phòng bệnh phân đoạn liền kề có triệu chứng ở bệnh nhân chỉ đau thắt lưng.
11. Câu hỏi về ngoại khoa 11
Ở bệnh nhân đau thắt lưng, có phải điều trị bằng kỹ thuật kết hợp sẽ giảm được thời gian đau, , giảm cường độ đau, cải thiện chức năng và tăng tỷ lệ trở lại làm việc so với điều trì bằng:
- Cắt đĩa đệm
- Cắt đĩa đệm kèm cắt rễ thần kinh
- Giải nén đơn thuần
Các bài tổng quan trong y văn không đưa ra được nghiên cứu nào để giải quyết một cách thỏa đáng câu hỏi này.
Hướng nghiên cứu trong tương lai
Nhóm tác giả đề xuất thực hiện:
- Các nghiên cứu quan sát dựa trên cơ sở dữ liệu lớn, chẳng hạn như các nghiên cứu đa trung tâm, đánh giá phẫu thuật cắt bỏ đĩa đệm và quản lý đau bổ trợ ở bệnh nhân chỉ đau thắt lưng.
- Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đánh giá hẫu thuật cắt bỏ đĩa đệm và quản lý đau bổ trợ ở bệnh nhân chỉ đau thắt lưng.
12. Câu hỏi về ngoại khoa 12
Ở những bệnh nhân bị đau thắt lưng do rối loạn chức năng khớp cùng chậu, kỹ thuật kết hợp khớp cùng chậu so với điều trị nội khoa / can thiệp có làm giảm thời gian đau, giảm cường độ đau cải thiện chức năng và tăng tỷ lệ trở lại làm việc so với phẫu thuật hợp nhất hay không?
Các bài tổng quan trong y văn không đưa ra được nghiên cứu nào để giải quyết một cách thỏa đáng câu hỏi này.
Nhóm tác giả tuyên bố: Phần lớn y văn đánh giá suy giảm chức năng khớp cùng chậu bao gồm những bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật vùng thắt lưng (điều này thường được thừa nhận như một yếu tố tiên lượng cho rối loạn chức năng khớp cùng chậu) và/hoặc đau chi dưới (là một dấu hiệu lâm sàng phổ biến ở bệnh nhân bị rối loạn chức năng khớp cùng chậu). Bài tổng quan này chỉ đánh giá những bằng chứng ở nhóm nhỏ bệnh nhên không có tiền sử phẫu thuật vùng thắt lưng và không đau dưới khớp gối. Những tài liệu khác so sánh điều trị ngoại khoa với điều trị nội/can thiệp bao gồm những bệnh nhân với tiền sử phẫu thuật vùng thắt lưng hoặc đau dưới khớp gối sẽ không được đề cập trong bài tổng quan của chúng tôi. Do đó, không thể đưa ra một tuyên bố chắc chắn ủng hộ sự phẫu thuật kết hợp khớp cùng chậu so với trong điều trị nội/ can thiệp ở bệnh nhân đau thắt lưng từ nguồn SI.
Hướng nghiên cứu trong tương lai
Nhóm tác giả đề xuất các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng bổ sung (do tổ chức phi công nghiệp tài trợ) để xác nhận tính ưu việt của điều trị ngoại khoađối với rối loạn chức năng khớp cùng chậu ở những bệnh nhân thất bại trong điều trị nội khoa /can thiệp.
13. Phần chung về cột sống và dây thần kinh ngoại vi
Phần tác giả: Paul G. Matz, MD; Zoher Ghogawala, MD
Thành viên: Simon Dagenais, DC, PhD; MSc Jeffrey A. King, DC; MS Paul Park, MD; Daniel R. Perry; PT Jonathan N. Sembrano, MD; Padma Gulur, MD.
Đại diện bên liên quan: Hiệp hội bác sĩ gây mê Hoa Kỳ (ASA) John E. O’Toole, MD, MS; Hiệp hội bác sĩ phẫu thuật thần kinh Hoa Kỳ / Hiệp hội Bác sĩ Phẫu thuật thần kinh
Giới thiệu
Chi phí bỏ ra cho bệnh đau thắt lưng (LBP) trong xã hội của chúng ta đã đạt đến một tỷ lệ đáng kinh ngạc. Một số nghiên cứu ước tính rằng bệnh đau thắt lưng tốn chi phí tương đương với tất cả các dịch vụ chăm sóc ung thư ở Hoa Kỳ.(1) Chi phí tổng thể của bệnh đau thắt lưng có thể lên tới 100 tỷ đô la mỗi năm bao gồm các chi phí mất mát gián tiếp như mất khả năng lao động hiệu quả.(2) Có sự khác biệt lớn về thực hành vì nó liên quan đến việc quản lý LBP. Sự khác nhau này là do việc sử dụng hình ảnh và các phương pháp điều trị can thiệp và phẫu thuật khác nhau. (3-5) Nghiên cứu về chi phí – hiệu quả và chi phí – công dụng cho ra những so sánh có giá trị giữa các phương pháp tiếp cận khác nhau trong quản lý đau thắt lưng. Mục đích của phần này của hướng dẫn là tóm tắt các bằng chứng về phân tích chi phí – công dụng vì nó liên quan đến việc quản lý đau thắt lưng.
Phân tích chi phí – cộng dụng là một loại đánh giá chi phí – hiệu quả đặc biệt so sánh 2 hoặc nhiều chiến lược điều trị thay thế về cả chi phí và kết quả. Kết quả được đo lường theo số năm sống được điều chỉnh chất lượng (QALYs) đạt được bằng cách sử dụng công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe dựa trên sở thích (HR-QOL), chẳng hạn như EQ-5D (Nhóm EuroQol) .(6-7) Một giải pháp thay thế , SF-6D, bao gồm 11 mục từ Khảo sát sức khỏe dạng ngắn 36 mục (SF-36) (8), cũng được sử dụng trong một số nghiên cứu.(9) HR-QOL dựa trên sở thích: đánh giá bằng các con số từ 0 (tử vong) đến 1 (sức khỏe hoàn hảo). QALY đạt sở thích. Ví dụ, một năm duy nhất được được xác định bằng cách nhân số năm trong tình trạng sức khỏe nhất định với điểm HR-QOL. Ví dụ, 1 năm với sức khỏe hoàn hảo sẽ là 1 QALY.(10)
Để so sánh chi phí – công dụng của hai biện pháp can thiệp A và B, điều quan trọng là phải tính toán tỷ lệ chi phí – công dụng gia tăng: Chi phí B – Chi phí A / (QALYs thu được từ B-QALYs thu được từ A). (10) Nói chung, một phương pháp điều trị được coi là hiệu quả về mặt chi phí trong xã hội của chúng ta khi chi phí điều trị ít hơn $ 100,000 / QALY đạt được.
Tính toán chi phí thường là một thách thức. Chi phí không giống như tiền phí. Chi phí trực tiếp là chi phí y tế liên quan đến thời gian / chuyên môn của bác sĩ, chi phí cơ sở vật chất và chi phí vật liệu (ví dụ: chi phí cấy ghép). Chi phí gián tiếp đề cập đến việc giảm khả năng lao động hiệu quả hoặc chi phí liên quan đến việc bệnh nhân mất khả năng hoạt động (cần trợ lý y tế tại nhà hoặc y tá) .(10) Nhìn chung, một phân tích kinh tế toàn diện nên bao gồm cả chi phí y tế trực tiếp (nội trú và ngoại trú) cùng với chi phí gián tiếp, mà đôi khi có thể lớn hơn nhiều theo thời gian so với chi phí trực tiếp.
Trong phần này của hướng dẫn, chúng tôi chỉ bao gồm các giấy tờ cung cấp các phân tích chi phí có giá trị. Trong một số phần, không có tài liệu nào đáp ứng các tiêu chí của một phân tích chi phí – tiện ích thực sự và do đó không thể đưa ra khuyến nghị nào. Điều quan trọng cần lưu ý là chi phí tiện ích phần lớn phụ thuộc vào quốc gia và hệ thống y tế nơi nghiên cứu được thực hiện.
Nguồn: https://www.spine.org/Portals/0/assets/downloads/ResearchClinicalCare/Guidelines/LowBackPain.pdf
Bản quyền và thương hiệu: Thông tin và hình ảnh trên website thuộc quyền sở hữu của Vinmecdr. Việc sao chép, sử dụng phải được Vinmecdr chấp thuận trước bằng văn bản.
Miễn trừ trách nhiệm: Tất cả những tư liệu được cung cấp trên website này đều mang tính tham khảo. Do đó, nội dung và hình ảnh sẽ được thay đổi, cập nhật và cải tiến thường xuyên mà không phải thông báo trước. Vinmecdr không bảo đảm về độ chính xác cũng như sự hoàn thiện về thông tin. Chúng tôi không chịu trách nhiệm pháp lý cho những thiệt hại xuất hiện trực tiếp hay gián tiếp từ việc sử dụng hoặc hành động dựa theo những thông tin trên hoặc một số thông tin xuất hiện trên website này. Vinmecdr không chịu trách nhiệm pháp lý về những sai sót, lỗi chính tả… do nhập liệu cùng với những sự cố khách quan khác như: nhiễm virus, hành vi phá hoại, ác ý… xảy ra trên website này cũng như các website liên kết, nếu có.
Đường link liên kết
Vinmecdr sẽ không chịu trách nhiệm hay có nghĩa vụ pháp lý dưới bất kỳ hình thức nào về nội dung của những website không thuộc Vinmecdr được liên kết với website www.vinmecdr.com, bao gồm các sản phẩm, dịch vụ và những mặt hàng khác được giới thiệu thông qua những website đó.