MỚI
load

Thay van động mạch chủ qua đường ống thông với hẹp van động mạch chủ nặng không triệu chứng

Ngày xuất bản: 19/06/2025

Nghiên cứu trên NEJM: Ở các bệnh nhân bị hẹp van động mạch chủ nặng không triệu chứng, chiến lược TAVR sớm vượt trội hơn so với theo dõi lâm sàng trong việc giảm tỷ lệ tử vong, đột quỵ hoặc nhập viện không dự kiến do nguyên nhân tim mạch.


Tổng quan
Đối với bệnh nhân hẹp van động mạch chủ nặng không triệu chứng và phân suất tống máu thất trái được bảo tồn, các hướng dẫn hiện tại khuyến cáo theo dõi lâm sàng định kỳ mỗi 6 đến 12 tháng. Tuy nhiên, chưa có dữ liệu từ các thử nghiệm ngẫu nhiên để xác định liệu can thiệp sớm bằng thay van động mạch chủ qua ống thông (TAVR) có cải thiện kết cục ở những bệnh nhân này hay không.

Phương pháp
Tại 75 trung tâm ở Hoa Kỳ và Canada, chúng tôi đã phân nhóm ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:1 cho các bệnh nhân bị hẹp van động mạch chủ nặng không triệu chứng để thực hiện TAVR sớm bằng phương pháp thay van qua đường động mạch đùi với van nở bằng bóng hoặc tiếp tục theo dõi lâm sàng. Kết cục chính là kết cục kết hợp của tử vong, đột quỵ hoặc nhập viện không theo kế hoạch do nguyên nhân tim mạch. Kiểm định tính ưu việt được thực hiện trên nhóm intention-to-treat.

Kết quả
Tổng cộng 901 bệnh nhân đã được phân ngẫu nhiên; 455 bệnh nhân được chỉ định thực hiện TAVR và 446 bệnh nhân được theo dõi lâm sàng. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 75,8 tuổi, điểm nguy cơ tử vong tiên đoán theo Hội Phẫu thuật Lồng ngực (Society of Thoracic Surgeons Predicted Risk of Mortality) trung bình là 1,8% (trên thang điểm từ 0 đến 100%, với điểm cao hơn biểu thị nguy cơ tử vong cao hơn trong vòng 30 ngày sau phẫu thuật), và 83,6% bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ trong mổ thấp.

Biến cố của kết cục chính gặp ở 122 bệnh nhân (26,8%) trong nhóm TAVR và 202 bệnh nhân (45,3%) trong nhóm theo dõi lâm sàng (tỷ suất nguy cơ, 0,50; khoảng tin cậy 95%, 0,40 đến 0,63; P<0,001). Tử vong xảy ra ở 8,4% bệnh nhân thuộc nhóm TAVR và 9,2% bệnh nhân thuộc nhóm theo dõi lâm sàng; đột quỵ xảy ra lần lượt ở 4,2% và 6,7%; và nhập viện không dự kiến do nguyên nhân tim mạch xảy ra lần lượt ở 20,9% và 41,7%.

Trong thời gian theo dõi trung vị là 3,8 năm, 87,0% bệnh nhân trong nhóm theo dõi lâm sàng đã thực hiện thay van động mạch chủ. Không có sự khác biệt rõ ràng về các biến cố bất lợi liên quan đến thủ thuật giữa bệnh nhân trong nhóm TAVR và những người trong nhóm theo dõi lâm sàng đã thực hiện thay van động mạch chủ.

Kết luận
Ở các bệnh nhân bị hẹp van động mạch chủ nặng không triệu chứng, chiến lược TAVR sớm vượt trội hơn so với theo dõi lâm sàng trong việc giảm tỷ lệ tử vong, đột quỵ hoặc nhập viện không dự kiến do nguyên nhân tim mạch

Nguồn: Philippe Généreux, M.D.Allan Schwartz, M.D.J. Bradley Oldemeyer, M.D.Philippe Pibarot, D.V.M., Ph.D.David J. Cohen, M.D.Philipp Blanke, M.D.Brian R. Lindman, M.D.+22 của nghiên cứu EARLY TAVR

New England Journal of Medicine 2025;392:217-227. DOI: 10.1056/NEJMoa2405880
Đọc bản toàn văn tại: https://www.nejm.org/do/10.1056/NEJMdo007829/full/   
facebook
6

Bình luận 0

Đăng ký
Thông báo về
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận

Bài viết cùng chuyên gia