MỚI

Ngày xuất bản: 21/08/2025

I. ĐẶT VẤN ĐỀ Liên cầu khuẩn nhóm B (Streptococcus agalactiae-GBS) là một loại vi khuẩn thường trú tại đường sinh dục dưới và trực tràng ở phụ nữ, trong đó khoảng 10–30% thai phụ có thể mang GBS mà không có triệu chứng lâm sàng rõ rệt [1]. Tuy nhiên, vi khuẩn này là nguyên nhân hàng đầu gây nhiễm trùng sơ sinh sớm, bao gồm nhiễm trùng huyết, viêm màng não và viêm phổi, với tỷ lệ tử vong sơ sinh có thể lên đến 10–15% nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời [2]. Theo hướng dẫn của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), việc sàng lọc GBS ở tất cả thai phụ từ tuần thai thứ 35–37, kết hợp với dự phòng kháng sinh trong chuyển dạ cho các trường hợp dương tính, được chứng minh làm giảm đáng kể nguy cơ lây truyền mẹ-con [1],[2]. Hiện nay, các kháng sinh β-lactam như Penicillin hoặc Ampicillin là lựa chọn điều trị hàng đầu do hiệu quả cao và tỷ lệ kháng thuốc thấp [3]. Tại Việt Nam, nghiên cứu ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và miền Trung cho thấy tỷ lệ thai phụ mang GBS dao động từ 13% đến 25% [4],[5]. Tuy nhiên, dữ liệu tại khu vực phía Nam-đặc biệt là các bệnh viện ngoài công lập như Vinmec Phú Quốc – còn tương đối hạn chế. Bên cạnh đó, một số yếu tố nguy cơ có thể ảnh hưởng đến khả năng mang GBS như tuổi mẹ ≥ 35, tiền sử sẩy thai, tiền sử phá thai, tiền sử sinh non ở thai, nhiễm trùng tiết niệu, đái tháo đường thai kỳ vẫn chưa được phân tích rõ trong nhiều nghiên cứu tại Việt Nam. Xuất phát từ đó, việc khảo sát tỷ lệ mang GBS ở thai phụ và phân tích một số yếu tố liên quan có ý nghĩa về mặt dịch tễ học mà còn giúp đưa ra chiến lược sàng lọc phù hợp, góp phần giảm thiểu nguy cơ nhiễm khuẩn sơ sinh, nâng cao chất lượng quản lý thai và giảm đáng kể các biến cố bất lợi cho thai phụ và trẻ sơ sinh.

Tin tức

Ngày xuất bản: 05/07/2025

Nhóm tác giả: Phạm Bá Nha1, Nguyễn Đình Tời1, Lê Thiện Thái1, Đinh Thị Hiền Lê1                      1. Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City Viêm não tự miễn là tình trạng một nhóm các rối loạn đặc trưng bởi các triệu chứng rối loạn chức năng hệ viền và ngoài hệ viền xảy ra liên quan đến các kháng thể chống lại các kháng nguyên nội bào, synap hoặc các protein khu trú trên bề mặt tế bào thần kinh. Bệnh viêm não thụ thể kháng NMDA (thể N-methyl-D-aspartate) được mô tả lần đầu năm 2007 và trở thành một trong những bệnh viêm não tự miễn được công nhận thường xuyên nhất. Bệnh chiếm ưu thế ở phụ nữ (81%) và bệnh nhân trẻ tuổi (37% <18 tuổi, 95% <45 tuổi), trong đó có tới 58% phụ nữ trên 18 tuổi có u quái buồng trứng. Các triệu chứng lâm sàng được ghi nhận gồm rối loạn tâm thần (lo lắng, kích động, hành vi kỳ quái, ảo giác, hoang tưởng và suy giảm trí nhớ); co giật và trạng thái động kinh; các triệu chứng thần kinh khác (loạn trương lực cơ, rối loạn vận động mắt,…) và rối loạn thông khí trung tâm. Việc chẩn đoán tình trạng này có thể gặp khó khăn do các triệu chứng không đặc hiệu, thường dẫn đến chậm trễ trong việc điều trị thích hợp. Chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời bệnh viêm não thụ thể kháng NMDA, đặc biệt ở phụ nữ trẻ có u quái buồng trứng, đã cải thiện đáng kể cơ hội phục hồi sức khỏe hoàn toàn và cải thiện tiên lượng về sức khỏe sinh sản của người bệnh.

Tin tức

Ngày xuất bản: 01/12/2022

Hướng dẫn cho bác sĩ đa khoa- Hướng dẫn này được biên soạn dành cho các bác sĩ đa khoa để tối ưu hoá việc tiếp cận bệnh nhân nữ với các triệu chứng ở vú mới xuất hiện. Hướng dẫn này dựa trên tiến hành tổng quan những bằng chứng khoa học kết hợp với ý kiến của các chuyên gia.-Đây chỉ là một hướng dẫn cho việc thực hành lâm sàng đúng đắn, còn tùy thuộc đánh giá của bác sĩ trên từng bệnh nhân. Việc đánh giá sẽ dựa trên tiền sử của bệnh nhân, ví dụ tiền sử gia đình hoặc bản thân đã từng bị ung thư vú, từ đó cá nhân hoá cách tiếp cận.

Tin tức

Ngày xuất bản: 01/12/2022

Mycoplasma genitalium là một trong những nguyên nhân phổ biến gây viêm niệu đạo dai dẳng, không lo lậu; tuy nhiên tình trạng đề kháng kháng sinh của vi khuẩn đang gia tăng đáng báo động. Guideline này nhằm trình bày những dữ liệu hiện có về biến chứng của M.genitalium và hướng dẫn phác đồ điều trị vi khuẩn này trong những trường hợp cụ thể.

Tin tức

Ngày xuất bản: 01/12/2022

Nhiễm virus HPV ở ngườiCác nhà khoa học đã phát hiện có khoảng 150 chủng virus HPV khác nhau, ít nhất 40 chủng trong số này gây bệnh tại bộ phận sinh dục. Phần lớn các trường hợp nhiễm HPV tự khỏi không cần điều trị và không có triệu chứng hoặc khó có thể phát hiện. Những người có hoạt động tình dục sẽ bị nhiễm HPV vào một thời điểm nào đó trong đời. Nhiễm HPV làm tăng nguy cơ bị ung thư (ví dụ: HPV16 và HPV18) gây ra phần lớn các bệnh ung thư cổ tử cung, dương vật, âm hộ, âm đạo, hậu môn và ung thư hầu họng và tiền ung thư. Trong khi nhiễm HPV chủng khác (ví dụ, HPV6 và HPV11) gây ra mụn cóc sinh dục và u nhú tái phát ở đường hô hấp. Nhiễm HPV gây ung thư dai dẳng là yếu tố, nguy cơ mạnh nhất đối với quá trình phát triển của các bệnh ung thư và tiền ung thư. Ở Hoa Kỳ, một tỷ lệ đáng kể các bệnh ung thư và mụn cóc sinh dục là do virus HPV. Ước tính mỗi năm có khoảng 34.800 ca ung thư do HPV mới, trong giai đoạn 2012–2016. Trước khi có vaccine HPV, hang năm ghi nhận khoảng 355.000 trường hợp mắc bệnh sùi mào gà mới.

Tin tức

Ngày xuất bản: 01/12/2022

Viêm tiểu khung là bệnh lý ở nữ giới, thường gặp hơn ở phụ nữ trẻ – những người trong độ tuổi sinh sản, dễ gặp hơn ở các chị em quan hệ tình dục với nhiều người. Viêm tiêu khung là một trong những nguyên nhân khiến chị em khó có thai, thậm chí vô sinh nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.

Tin tức

Tác giả: | Ngày xuất bản: 29/07/2022

Sự thành công trong các chu kỳ hỗ trợ sinh sản phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó số lượng và chất lượng nang noãn đóng vai trò rất quan trọng. Tỉ lệ thành công trong các chu kỳ điều trị sẽ tăng lên khi có kích thích buồng trứng. Kích thích buồng trứng là việc phối hợp các thuốc kích thích buồng trứng theo nhiều phác đồ khác nhau để tạo được sự phát triển nang noãn tối ưu, gia tăng cơ hội có thai cho một chu kỳ điều trị.
Trang
của 2