Nghiên cứu về tỷ lệ nhẹ cân, thừa cân và béo phì ở đô thị Hà Nội, Việt Nam đã được đăng trên tạp chí Asia Pac J Clin Nutr 2009;18(2):234-9.
Nhóm tác giả: Helen L Walls MPH1, Anna Peeters PhD1, Pham Thai Son MD2, Nguyen Ngoc Quang MD2, Nguyen Thi Thu Hoai MD2, Do Doan Loi PhD2, Nguyen Lan Viet PhD 2, Pham Gia Khai PhD2,Christopher M Reid PhD1
Đơn vị công tác:
- Khoa Dịch tễ học & Y tế Dự phòng, Đại học Monash, Bệnh viện Alfred, Úc
- Viện Tim mạch Quốc gia Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội, Việt Nam
Tổng quan
Nghiên cứu này nhằm đánh giá tỷ lệ nhẹ cân, thừa cân và béo phì ở người trưởng thành ở Hà Nội, Việt Nam; và so sánh các kết quả này với các ước tính trước đó ở người lớn ở thành phố Hồ Chí Minh. Những người tham gia khảo sát là cư dân trong độ tuổi từ 25-74 ở thành phố Hà Nội, Việt Nam. Dữ liệu từ một cuộc điều tra y sinh cắt ngang được thực hiện vào năm 2004 đã được thu thập; trong đó bao gồm một bảng câu hỏi, khám lâm sàng và xét nghiệm máu. Theo giới hạn chỉ số BMI ở người châu Á, tỷ lệ thừa cân và béo phì được chuẩn hóa theo độ tuổi vào năm 2004 lần lượt là 28,6% và 2,1%. Tỷ lệ thừa cân/béo phì (kết hợp) tương tự nhau ở nam (29,7%) và nữ (31,5%), và nhìn chung tăng theo tuổi. Tỷ lệ thừa cân/béo phì thấp hơn đáng kể nếu sử dụng giới hạn tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới. Tỷ lệ nhẹ cân đã chuẩn hóa theo tuổi là 13,3%; và chu vi vòng eo ‘nguy cơ’/’nguy cơ cao’’ (kết hợp) lần lượt là 27,9% ở nam và 25,7% ở nữ. Gần một phần ba người trưởng thành ở thành thị Hà Nội bị thừa cân hoặc béo phì vào năm 2004 và hơn một phần mười người bị nhẹ cân (dựa trên giá trị giới hạn cụ thể của châu Á). Ở Hà Nội, tỷ lệ thừa cân/béo phì ở người trưởng thành tương đương với thành phố Hồ Chí Minh, nhưng tỷ lệ nhẹ cân thấp hơn. Trong khi tình trạng nhẹ cân vẫn là một vấn đề đáng lo ngại, thì thừa cân và béo phì đang là một vấn đề ngày càng gia tăng đối với những người trưởng thành ở thành thị Việt Nam.
PMID: 19713183
Từ khóa: nhẹ cân, thừa cân, béo phì, BMI, Việt Nam
Được trích dẫn bởi 12 bài báo
Đái tháo đường: Những thách thức nào đang chờ đợi Việt Nam?
Ngoc NB, Lin ZL, Ahmed W.
Ann Glob Health. 2020 Jan 2;86(1):1. doi: 10.5334/aogh.2526.
PMID: 31934549
Gánh nặng kép của tình trạng nhẹ cân và thừa cân ở phụ nữ ở Nam và Đông Nam Á: Đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp.
Biswas T, Magalhaes RJS, Townsend N, Das SK, Mamun A.
Adv Nutr. 2020 Jan 1;11(1):128-143. doi: 10.1093/advances/nmz078.
PMID: 31634389
Thành lập các trung tâm hoạt động cho người cao tuổi ở các vùng đô thị của Việt Nam: sở thích và sự sẵn sàng chi trả.
Nguyen TTH, Nguyen TX, Pham T, Nguyen CT, Thu Vu G, Nguyen LH, Tran BX, Vu HTT, Latkin CA, Ho CS, Ho RC.
J Multidiscip Healthc. 2019 Sep 18;12:795-802. doi: 10.2147/JMDH.S193821. eCollection 2019.
PMID: 31571897
Khảo sát các thực hành nuôi dưỡng trẻ sơ sinh: khảo sát cắt ngang ở South Western Sydney, Singapore và Thành phố Hồ Chí Minh.
Leow TYQ, Ung A, Qian S, Nguyen JT, An Y, Mudgil P, Whitehall J.
BMC Pediatr. 2017 Jun 13;17(1):145. doi: 10.1186/s12887-017-0902-0.
PMID: 28610570
Nguyên nhân của bệnh béo phì trong suốt vòng đời: Điểm nổi bật về sinh thái học và di truyền học ở các nước Châu Á.
Chong PN, Teh CP, Poh BK, Noor MI.
Curr Obes Rep. 2014 Mar;3(1):16-37. doi: 10.1007/s13679-013-0088-1.
PMID: 26626465
Để đọc toàn bộ bài nghiên cứu, vui lòng truy cập tại đây