Bệnh tim mạch – Nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho thai phụ
Tara Haelle
Ngày 29 tháng 12 năm 2022
Trong thai kỳ và thời kỳ hậu sản thì bệnh tim mạch là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho thai phụ ở Hoa Kỳ theo Hiệp hội Sản Phụ Khoa Hoa Kỳ (ACOG). Qua đó ACOG đã đưa ra một hướng dẫn thực hành lâm sàng về bệnh tim mạch thai kỳ tại cuộc họp thường niên năm 2019 của ACOG được tổ chức tại Nashville, Tennesse.
“Chúng tôi bắt buộc phải nghĩ đến khả năng xảy ra bệnh tim ở tất cả phụ nữ mang thai và sau khi mang thai để phát hiện và điều trị những bà mẹ có nguy cơ.” – Bác sĩ James Martin, Giám đốc nhóm chuyên phụ trách bệnh tim thai kỳ của ACOG đã chia sẻ trong một bản tin .
Trong hướng dẫn thực hành lâm sàng này, nhóm chuyên phụ trách về mảng này mô tả các yếu tố nguy cơ gây tử vong liên quan đến tim mạch, các tình trạng tim mạch thường gặp ở phụ nữ mang thai và sau khi mang thai và các khuyến cáo đối với việc chẩn đoán và xử trí các tình trạng này.
Mặc dù bệnh tim mạch chỉ ảnh hưởng khoảng 1% đến 4% phụ nữ mang thai ở Hoa Kỳ nhưng lại có liên quan đến 26.5% số ca tử vong ở thai phụ trước và sau khi sinh. Theo thông tin của ACOG, ước tính có 4.23 người mẹ tử vong do nguyên nhân liên quan đến tim mạch trên mỗi 100000 trẻ sơ sinh sống sót và tỷ lệ này còn cao hơn đối với phụ nữ có thu nhập thấp và phụ nữ da màu.
Bác sĩ Lisa Hollier, Nguyên Giám đốc của ACOG đã giải thích trong một bản tin rằng: “Hầu hết những trường hợp tử vong này đều có thể ngăn chặn được nhưng chúng ta đang bỏ qua những cơ hội để phát hiện các yếu tố nguy cơ trước thai kỳ và thường có sự trì hoãn trong việc phát hiện các triệu chứng trong thời gian mang thai và sau sinh, đặc biệt là đối với phụ nữ da đen.”
Bà đã chỉ ra rằng dù có nhiều trường hợp tử vong do các vấn đề tim mạch đã bị từ trước nhưng phần các ca tử vong đều liên quan đến bệnh tim khởi phát trong thời gian mang thai. Ví dụ, bệnh cơ tim chu sản là nguyên nhân gây ra 23% trường hợp tử vong muộn sau sinh.
Bác sĩ Martin đã nói việc mang thai là “một bài kiểm tra áp lực tự nhiên” và “Hệ tim mạch phải chịu những sự thay đổi lớn về cấu trúc của nó để duy trì được thể tích máu gia tăng đáng kể.”
Ông cũng bổ sung rằng: “Đó là lý do vì sao việc phát hiện trước các yếu tố nguy cơ là điều vô cùng quan trọng để có thể chăm sóc tốt cho người phụ nữ trong quá trình mang thai và xây dựng được kế hoạch sinh nở chi tiết thông qua hội chẩn giữa bệnh nhân và cơ sở y tế cung cấp dịch vụ.”
Phụ nữ da đen có nguy cơ cao gấp 3 lần
Từ năm 2011 đến năm 2013, khi mà có 11.0 phụ nữ gốc Tây Ban Nha và 12.7 phụ nữ da trắng không phải gốc Tây Ban Nha tử vong với mỗi 100000 trẻ sơ sinh sống sót thì có tới 43.5 phụ nữ da đen không phải gốc Tây Ban Nha tử vong với mỗi 100000 trẻ sơ sinh sống sót. Theo báo cáo của nhóm chuyên phụ trách về bệnh tim thai kỳ thì nguy cơ tử vong đối với phụ nữ da đen cao hơn đến 3.4 lần so với nguy cơ tử vong của phụ nữ da trắng và phần lớn là do việc phân biệt chủng tộc trong các hệ thống chăm sóc sức khoẻ.
Báo cáo trên lưu ý rằng: “Bác sĩ ngầm có thành kiến hoặc có biểu hiện thành kiến hoặc phân biệt chủng tộc rõ ràng có thể dẫn đến bỏ sót các chẩn đoán hoặc điều trị không phù hợp.” Ngoài ra, các rào cản của hệ thống y tế với việc phân loại hiệu quả dựa trên mức độ triệu chứng, các rào cản về ngôn ngữ và sự khác biệt về văn hoá nhún nhường là các yếu tố quan trọng cần được nghiên cứu để hiểu một cách đầy đủ những sự phân biệt mà phụ nữ da màu thường phải đối mặt khi tiếp cận hệ thống y tế.”
Nguy cơ đái tháo đường thai kỳ cũng cao hơn đối với phụ nữ da đen giống với nguy cơ tiền sản giật, sinh non và nguy cơ trẻ sơ sinh bị nhẹ cân. Những trải nghiệm bị hệ thống y tế phân biệt đối xử trong quá khứ có thể khiến người phụ nữ mất đi lòng tin vào hệ thống y khoa và dẫn đến làm tăng tỷ lệ xảy ra các tình trạng này. Nhóm chuyên phụ trách cũng viết trong báo cáo là: ‘Điều quan trọng là cần cải thiện việc giáo dục cho những phụ nữ này và các nguồn thông tin mà họ tin tưởng bằng cách nhấn mạnh vào giá trị của việc chăm sóc y tế và tầm quan trọng của chế độ dinh dưỡng cân đối cũng như việc tập thể dục thường xuyên.”
Các yếu tố nguy cơ đáng kể khác bao gồm tuổi cao, béo phì (đặc biệt là nếu có kèm theo bị tắc nghẽn đường thở khi ngủ) và tăng huyết áp trong thai kỳ (xảy ra với 10% trường hợp mang thai). Bản tin lưu ý rằng: “Với các trường hợp mang thai có biến chứng tăng huyết áp thì tỷ lệ nhồi máu cơ tim và suy tim lần lượt cao gấp 13 lần và 8 lần so với những thai phụ khoẻ mạnh.”
Có thể sử dụng một lưu đồ được cung cấp để đánh giá bệnh tim mạch ở phụ nữ mang thai và sau sinh giống như một bảng biểu được dùng để phân loại nguy cơ cho phụ nữ đã các bệnh tim mạch trước đó.
Bản tin này cũng bàn luận về các xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh được chỉ định, các kết quả phiên giải liên quan, danh sách các thuốc tim mạch với các thông tim về khả năng gây quái thai và ảnh hưởng đến thai kỳ hoặc việc cho con bú và các thuốc sản khoa có thể ảnh hưởng đến tim.
ACOG khuyến cáo rằng phụ nữ đã được xác định mắc bệnh tim mạch nên được bác sĩ tim mạch kiểm tra đánh giá trước khi mang thai hoặc sớm nhất có thể sau khi mang thai để xác định cơ sở điều trị, đội ngũ bác sĩ và hướng xử trí phù hợp nhất bất kể triệu chứng của bệnh nhân là gì.
Các triệu chứng như khó thở, tức ngực, trống ngực nhịp nhanh, rối loạn nhịp tim và ứ dịch là các chỉ định đối với đánh bệnh cơ tim chu sản thường được kiểm tra bằng siêu âm tim.
Tuy nhiên, bất kể triệu chứng hay tình trạng bệnh nhân bị là gì thì nhóm chuyên phụ trách về bệnh tim thai kỳ cũng đều khuyến cáo rằng “tất cả phụ nữ đều cần được kiểm tra đánh giá bệnh tim mạch trước và sau khi sinh bằng quy trình hỗ trợ cải thiện chăm sóc sức khoẻ để điều trị bệnh tim mạch trong thời kỳ mang thai và sau sinh của California.
Do nguy cơ xảy ra các biến chứng liên quan đến tim mạch tăng lên có thể kéo dài đến 1 năm sau sinh, hướng dẫn thực hành lâm sàng này khuyến cáo rằng phụ nữ có các rối loạn huyết áp cần tái khám theo dõi với cơ sở y tế hoặc bác sĩ tim mạch đã điều trị ban đầu sau 7 đến 10 ngày sau khi sinh. Những bệnh nhân bị bệnh tim hoặc có các rối loạn tim mạch cần được tái khám sau 7 đến 14 ngày sau khi sinh. Những bệnh nhân này sau đó nên được kiểm tra tim mạch toàn diện sau sinh 3 tháng để bàn luận về kế hoạch sinh nở trong tương lai bên cạnh việc khám bệnh thường niên.
Bác sĩ Hollier đã nói rằng: “Xây dựng kế hoạch chăm sóc sức khoẻ dài hạn cho những phụ nữ này là điều vô cùng quan trọng. Hiện nay, có nhiều phụ nữ đang ở nhà và chăm sóc rất tốt cho con của họ nhưng làm thế nào để chứng minh rằng chúng ta cũng đang chăm sóc họ? Đây là công việc của chúng ta cần làm để đảm bảo việc thực hành lâm sàng, các chính sách và hệ thống y tế của chúng ta phản ánh đúng những cam kết với sức khoẻ và sự hạnh phúc của các bà mẹ trên đất nước này.”
Nhóm chuyên phụ trách không hề nhận bất kỳ khoản tài trợ bên ngoài nào khi xây dựng hướng dẫn thực hành này. Bác sĩ Martin và Bác sĩ Hollier đã công bố tài chính cho thấy không có mối quan hệ tài chính nào liên quan.
Obstet Gynecol. 2019;133:e320-e356. Tổng quan
Cuộc họp thường niên năm 2019 của Hiệp hội Sản Phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG). Được trình bày vào ngày 3 tháng 5 năm 2019.
Theo dõi Medscape trên Facebook, Twitter, Instagram và Youtube.
Trích dẫn bài viết: Cardiovascular Disease Leading Cause of Maternal Death – Medscape – May 06, 2019.
Bài viết liên quan
Bình luận0
Bài viết cùng chuyên gia
