MỚI
load

Nghiên cứu tiền cứu: Phẫu thuật tạo hình hậu môn trực tràng qua đường sau trực tràng cải biên có hỗ trợ nội soi cho bệnh nhân dị tật hậu môn trực tràng có rò trực tràng-niệu đạo hành

Ngày xuất bản: 13/04/2022

Nhóm tác giả: Vikesh Agrawal 1, Saurabh Gupta 2, Nguyễn Thanh Liêm 3, Himanshu Acharya 4, Dhananjaya Sharma 5

Đơn vị công tác:

  1. Khoa Phẫu thuật; Phẫu thuật Nhi khoa, Trường Cao đẳng Y tế Chính phủ Netaji Subhash Chandra Bose.
  2. Khoa Phẫu thuật; Phẫu thuật Nhi, Trường Cao đẳng Y tế NSCB Chính phủ.
  3. Khoa Phẫu thuật Nhi, Viện Nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ gen Vinmec, Hà Nội, Việt Nam.
  4. Khoa Phẫu thuật, Đơn vị Phẫu thuật Nhi, Trường Cao đẳng Y tế Netaji Subhash Chandra Bose.
  5. Khoa Phẫu thuật, Trường Cao đẳng Y tế Netaji Subhash Chandra Bose, Jabalpur, Madhya Pradesh, Indi.

Giới thiệu: Phẫu thuật tạo hình hậu môn trực tràng nội soi (LAARP) hữu ích trong việc xử trí lỗ rò niệu đạo trực tràng (RPUF), do trực tràng vận động dễ dàng hơn, tránh được vết rạch cơ sau sinh và thời gian nằm viện ngắn hơn. Tuy nhiên, vai trò của nó trong lỗ rò trực tràng-niệu đạo hành (rectobulbar urethral fistula-RBUF) vẫn còn đang được tranh luận vì có khả năng xuất hiện túi thừa niệu đạo (urethral diverticulum-UD), do không được bóc tách hoàn toàn. Nội soi ổ bụng ‐ tạo hình hậu môn trực tràng sau chỉnh sửa có hỗ trợ (LAMPSARP) sử dụng các ưu điểm của LAARP kết hợp với bóc tách đường rò bằng cách sử dụng vết rạch nhỏ để bảo tồn hậu môn trực tràng. Nghiên cứu này so sánh kết quả của LAMPSARP với LAARP để điều chỉnh RBUF liên quan đến dị tật hậu môn trực tràng (anorectal malformations- ARMs). Vật liệu và Phương pháp: Tất cả bệnh nhân nam dị tật hậu môn trực tràng có RBUF đang điều trị tại một trung tâm Y tế cấp ba ở miền Trung Ấn Độ (từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 1 năm 2016) đã được nghiên cứu. Số ít bệnh nhân ARM, RPUF, lỗ rò rectovestical và đại tràng túi bẩm sinh đã được loại trừ. Họ được phân ngẫu nhiên thành các nhóm LAARP và LAMPSARP. Các biến chứng được đánh giá bao gồm hẹp hậu môn, sa niêm mạc và UD. Các thang điểm Kelly và Krickenbeck được sử dụng để đánh giá tính liên tục, và thang đo cosmesis hậu môn nhìn thấy được (VACS) được sử dụng để đánh giá cosmesis wanal. Kết quả được phân tích thống kê bằng cách so sánh các phương tiện và bảng dự phòng 2×2. Kết quả: 56 bệnh nhân mắc RBUF (26 LAARP, 30 LAMPSARP) đã được ghi nhận. Thời gian phẫu thuật trung bình ở nhóm LAARP và nhóm LAMPSARP lần lượt là 42 ± 10 phút và 56 ± 12 phút (P <0,0001). Theo dõi trung bình 4,5 năm, sa niêm mạc (53,9%) và UD (15,38%) cao hơn đáng kể ở nhóm LAARP, hẹp hậu môn cũng tương tự. Cả ba, điểm Kelly, điểm Krickenbeck và VACS, đều tốt hơn (P <0,05) trong nhóm LAMPSARP. Kết luận: Phương pháp phẫu thuật tạo hình hậu môn cải biên có hỗ trợ nội soi sẽ tốt hơn cho bệnh nhân RBUF và mang lại kết quả phẫu thuật tốt hơn. Từ khóa: Dị dạng hậu môn trực tràng, nội soi ổ bụng, lỗ rò trực tràng-niệu đạo hành. Để đọc chi tiết bài nghiên cứu, vui lòng truy cập Tại đây.

facebook
43

Bình luận 0

Đăng ký
Thông báo về
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận

Bài viết liên quan

Bài viết cùng chuyên gia