MỚI

Ngày xuất bản: 30/09/2025

Tác giả: Đoàn Trung Hiệp1, Lê Đức Anh2, Dương Văn Nghĩa2, Bồ Thị Minh Châm3, Phạm Thị Quỳnh31Bác sĩ Trưởng khoa, Khoa xạ trị- Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City. Email: ro.dthiep2009@gmail.com. Cellphone: 0985220082. Địa chỉ: Số 458 Minh Khai – P. Vĩnh Tuy – Q. Hai Bà Trưng – Hà Nội. 2Bác sĩ xạ trị, Khoa xạ trị- Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City. 3Điều dưỡng Khoa xạ trị- Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City.Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị giảm đau bằng xạ trị ở bệnh nhân ung thư di căn xương tại bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Chúng tôi mô tả hồi cứu trên 22 bệnh nhân ung thư có di căn xương được điều trị bằng phương pháp xạ trị tại bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2022 đến tháng 1 năm 2024. Kết quả: 22 bệnh nhân phù hợp tiêu chí lựa chọn với tuổi trung bình là 59,5 ± 15,1, tỷ lệ nam/nữ = 1. Đa số là di căn xương từ ung thư phổi và vú chiếm 64%. Số lượng tổn thương di căn chủ yếu là đa ổ, chiếm 81,8%. Mức liều- phân liều điều trị là từ 8Gy/1 phân liều - 30Gy/10 phân liều. Có 2 bệnh nhân sử dụng kỹ thuật SBRT với mức liều- phân liều 24Gy/3 phân liều. Các bệnh nhân được sử dụng thuốc giảm đau chủ yếu bậc 2, chiếm 95,4%, chỉ có 1 bệnh nhân phải sử dụng morphin, chiếm 4,6%. Điểm đau theo thang điểm cường độ đau dạng nhìn (VAS- visual analog scale) và thang điểm khách quan được điều chỉnh dựa trên bộ câu hỏi Wisconsin (Wilconsin BPQ- Brief Pain Questionaire) trước điều trị trung bình lần lượt là 4,6 ± 1,2 và 4,3 ± 1,5. Tại thời điểm 1 tháng sau xạ trị, có sự khác biệt về mức độ đau theo cả hai thang điểm so với trước xạ trị với giá trị p <0,05. Tuy nhiên không có sự khác biệt về mức độ đau ở cả hai thang điểm so giữa thời điểm 3 tháng và 1 tháng sau xạ trị với p> 0,05. Tại thời điểm 1-3 tháng, có 90,1% bệnh nhân có đáp ứng giảm đau. Trong 20/22 bệnh nhân có đáp ứng giảm đau, chủ yếu các bệnh nhân bắt đầu có đáp ứng giảm đau tại thời điểm 7-14 ngày sau xạ trị. Đa số các bệnh nhân duy trì được đáp ứng giảm đau trong 3-6 tháng, chiếm 71,4%. Kết luận: Tỷ lệ đáp ứng giảm đau của xạ trị cao là 90,1%. Thời gian bắt đầu giảm đau thường gặp là sau xạ 7-14 ngày. Thời gian duy trì đáp ứng thường gặp là 3-6 tháng. Từ những kết quả thu được cho thấy xạ trị là phương pháp điều trị giảm đau hiệu quả cao cho ung thư di căn xương.

Tin tức

Ngày xuất bản: 27/09/2025

1.Tóm tắt Mục tiêu của nghiên cứu là xác định và phân loại nguồn cấp máu cho phức hợp quầng – núm vú (NAC) trên cộng hưởng từ (MRI) vú, nhằm hỗ trợ lập kế hoạch phẫu thuật bảo tồn và tái tạo vú. Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên 30 bệnh nhân nữ (60 vú) chụp MRI vú tại Bệnh viện Vinmec Times City từ 03/2022 đến 10/2022, loại trừ bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật vú. Phân loại nguồn cấp máu NAC dựa trên 5 vùng giải phẫu. Kết quả cho thấy tổng cộng 114 mạch nguồn được ghi nhận, trong đó nhóm trong (loại I) chiếm ưu thế, với 33 vú chỉ có nguồn máu từ nhóm này. Có 25 vú có nguồn máu đa vùng, chủ yếu kết hợp loại I và II. Không ghi nhận mạch nguồn từ vùng IV và V, gợi ý vị trí tối ưu cho đường rạch da là góc phần tư dưới ngoài (LOQ). MRI vú không chỉ có giá trị chẩn đoán mà còn hữu ích trong đánh giá nguồn máu nuôi NAC, giúp giảm nguy cơ biến chứng trong phẫu thuật bảo tồn và tái tạo.

Tin tức

Ngày xuất bản: 26/09/2025

Sarcoma xương là bệnh lý ít gặp, do đó không nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn trên đối tượng bệnh nhân này. EURAMOS - 1 là nghiên cứu đa trung tâm, đa quốc gia lớn nhất từ trước đến nay cung cấp dữ liệu về kết quả điều trị bệnh sarcoma xương sử dụng phác đồ phối hợp 3 hoá chất MAP (Methotrexate, doxorubicin và cisplatin). Với tỷ lệ sống thêm toàn bộ 3 năm 79% và 5 năm 71%, nghiên cứu cung cấp thêm một lựa chọn về phác đồ điều trị sarcoma xương hiệu quả cho bác sĩ lâm sàng. Từ kết quả của nghiên cứu, phác đồ MAP đã được sử dụng phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Tin tức

Ngày xuất bản: 03/09/2025

TÓM TẮTLiệt đám rối thần kinh cánh tay là tình trạng yếu hoặc liệt của vùng vai và tay do tổn thương các dây thần kinh thuộc phức hợp đám rối cánh tay (gồm các rễ C5, C6, C7, C8 và T1) gây ảnh hưởng nhiều đến chức năng vận động cánh tay và sinh hoạt cá nhân. Tổn thương này có thể gặp ở người lớn hoặc trẻ em, phần lớn là do chấn thương. Thuật ngữ liệt đám rối thần kinh cánh tay bẩm sinh hiện nay được dùng để chỉ các trường hợp trẻ bị liệt ngay khi sinh ra, thường là do các tai biến trong sản khoa, tuy nhiên rất hiếm các trường hợp gặp là bẩm sinh thật sự do sự bất thường các cấu trúc giải phẫu trong quá trình hình thành thai nhi. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập tới một trường hợp rất hiếm gặp trong thực hành lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh: liệt đám rối thần kinh cánh tay một bên do bất sản các nhánh thần kinh của đám rối có kèm theo các bất thường bẩm sinh khác của cột sống cổ ở một trẻ nhỏ mổ đẻ.

Tin tức

Ngày xuất bản: 21/08/2025

I. ĐẶT VẤN ĐỀ Liên cầu khuẩn nhóm B (Streptococcus agalactiae-GBS) là một loại vi khuẩn thường trú tại đường sinh dục dưới và trực tràng ở phụ nữ, trong đó khoảng 10–30% thai phụ có thể mang GBS mà không có triệu chứng lâm sàng rõ rệt [1]. Tuy nhiên, vi khuẩn này là nguyên nhân hàng đầu gây nhiễm trùng sơ sinh sớm, bao gồm nhiễm trùng huyết, viêm màng não và viêm phổi, với tỷ lệ tử vong sơ sinh có thể lên đến 10–15% nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời [2]. Theo hướng dẫn của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), việc sàng lọc GBS ở tất cả thai phụ từ tuần thai thứ 35–37, kết hợp với dự phòng kháng sinh trong chuyển dạ cho các trường hợp dương tính, được chứng minh làm giảm đáng kể nguy cơ lây truyền mẹ-con [1],[2]. Hiện nay, các kháng sinh β-lactam như Penicillin hoặc Ampicillin là lựa chọn điều trị hàng đầu do hiệu quả cao và tỷ lệ kháng thuốc thấp [3]. Tại Việt Nam, nghiên cứu ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và miền Trung cho thấy tỷ lệ thai phụ mang GBS dao động từ 13% đến 25% [4],[5]. Tuy nhiên, dữ liệu tại khu vực phía Nam-đặc biệt là các bệnh viện ngoài công lập như Vinmec Phú Quốc – còn tương đối hạn chế. Bên cạnh đó, một số yếu tố nguy cơ có thể ảnh hưởng đến khả năng mang GBS như tuổi mẹ ≥ 35, tiền sử sẩy thai, tiền sử phá thai, tiền sử sinh non ở thai, nhiễm trùng tiết niệu, đái tháo đường thai kỳ vẫn chưa được phân tích rõ trong nhiều nghiên cứu tại Việt Nam. Xuất phát từ đó, việc khảo sát tỷ lệ mang GBS ở thai phụ và phân tích một số yếu tố liên quan có ý nghĩa về mặt dịch tễ học mà còn giúp đưa ra chiến lược sàng lọc phù hợp, góp phần giảm thiểu nguy cơ nhiễm khuẩn sơ sinh, nâng cao chất lượng quản lý thai và giảm đáng kể các biến cố bất lợi cho thai phụ và trẻ sơ sinh.

Tin tức

Ngày xuất bản: 08/08/2025

1. Tóm tắtNhồi máu cơ tim ST chênh lên (STEMI) là tình trạng tối cấp cứu tim mạch, nguy cơ tử vong rất cao nếu không tái tưới máu kịp thời [2,3]. Mục tiêu nghiên cứu đánh giá hiệu quả của tiêu sợi huyết trong điều trị STEMI tại Vinmec Phú Quốc. 14 bệnh nhân được nghiên cứu từ năm 2021 đến 2024. Kết quả điều trị tình trạng đau ngực giảm rõ sau tiêu sợi huyết với điểm VAS trung bình giảm từ 7.1 xuống 1.6. Độ chênh đoạn ST ghi nhận giảm 77% sau tiêu sợi huyết, trong đó số ca giảm chênh > 50% chiếm tỉ lệ 78.6%. Về kết cục, 100% bệnh nhân sau tiêu sợi huyết được can thiệp mạch vành và ổn định ra viện. 1/14 ca có biến chứng chảy máu bàng quang. 5/14 ca có nhịp tự thất gia tốc sau tiêu sợi huyết sau đó tự hồi phục về nhịp nền. Kết luận tiêu sợi huyết trong STEMI là phương pháp điều trị hiệu quả, an toàn và phù hợp với các tuyến y tế cơ sở tại Việt Nam hiện nay.

Tin tức

Ngày xuất bản: 14/07/2025

Nghiên cứu mới trên tạp chí The New England Journal of Medicine về một chủ đề không mới, nhưng là một khoảng trống trong điều trị nhiễm khuẩn huyết, tác động đến thực hành lâm sàng. Ở bệnh nhân nhập viện bị nhiễm khuẩn huyết, điều trị kháng sinh trong 7 ngày không kém hiệu quả so với điều trị 14 ngày về mặt tỷ lệ tử vong sau 90 ngày, đồng thời có thể giảm thiểu việc sử dụng kháng sinh kéo dài không cần thiết

Tin tức

Ngày xuất bản: 05/07/2025

Nhóm tác giả: Phạm Bá Nha1, Nguyễn Đình Tời1, Lê Thiện Thái1, Đinh Thị Hiền Lê1                      1. Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City Viêm não tự miễn là tình trạng một nhóm các rối loạn đặc trưng bởi các triệu chứng rối loạn chức năng hệ viền và ngoài hệ viền xảy ra liên quan đến các kháng thể chống lại các kháng nguyên nội bào, synap hoặc các protein khu trú trên bề mặt tế bào thần kinh. Bệnh viêm não thụ thể kháng NMDA (thể N-methyl-D-aspartate) được mô tả lần đầu năm 2007 và trở thành một trong những bệnh viêm não tự miễn được công nhận thường xuyên nhất. Bệnh chiếm ưu thế ở phụ nữ (81%) và bệnh nhân trẻ tuổi (37% <18 tuổi, 95% <45 tuổi), trong đó có tới 58% phụ nữ trên 18 tuổi có u quái buồng trứng. Các triệu chứng lâm sàng được ghi nhận gồm rối loạn tâm thần (lo lắng, kích động, hành vi kỳ quái, ảo giác, hoang tưởng và suy giảm trí nhớ); co giật và trạng thái động kinh; các triệu chứng thần kinh khác (loạn trương lực cơ, rối loạn vận động mắt,…) và rối loạn thông khí trung tâm. Việc chẩn đoán tình trạng này có thể gặp khó khăn do các triệu chứng không đặc hiệu, thường dẫn đến chậm trễ trong việc điều trị thích hợp. Chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời bệnh viêm não thụ thể kháng NMDA, đặc biệt ở phụ nữ trẻ có u quái buồng trứng, đã cải thiện đáng kể cơ hội phục hồi sức khỏe hoàn toàn và cải thiện tiên lượng về sức khỏe sinh sản của người bệnh.

Tin tức

Ngày xuất bản: 03/07/2025

Nghiên cứu đăng trên The New England Journal of Medicine cho thấy rằng ở các bệnh nhân có nguy cơ chảy máu và huyết khối cao sau can thiệp mạch vành qua da (PCI), việc điều trị đơn trị với Ticagrelor sau 3 tháng điều trị kháng kết tập tiểu cầu kép có thể giảm nguy cơ chảy máu đáng kể mà không làm tăng nguy cơ các biến cố thiếu máu cục bộ nghiêm trọng
Trang
của 8