Hãm sụn phát triển đầu trên xương mác có cần thiết làm đồng thời với xương chày?
Nhóm tác giả: Jonathan Boyle 1, Marina R. Makarov 2, David A. Podeszwa 2, Jennifer A. Rodgers 2, Chan-Hee Jo 2, John G. Birch 2
Ngày xuất bản: Tháng 11 / tháng 12 năm 2020;
Đơn vị công tác:
- Trung tâm Y tế Odessa, Odessa.
- Nghi thức Scotland dành cho trẻ em, Dallas, TX.
Hoàn cảnh:
Tranh cãi còn tồn tại liên quan đến sự cần thiết của hãm sụn phát triển (HSPT-epiphysiodesis) đầu trên xương mác đồng thời với HSPT đầu trên xương chày để ngăn chặn sự phát triển quá mức xương mác. Mục đích của nghiên cứu này là để xác định tỷ lệ phát triển quá mức của xương mác ở những bệnh nhân đã trải qua HSPT xương chày kèm có hoặc không HSPT xương mác để quản lý sự khác biệt về chiều dài chân.
Phương pháp:
Chúng tôi xác định những bệnh nhân đã trải qua HSPT đầu trên xương chày, có hoặc không HSPT xương mác đồng thời, theo dõi sự trưởng thành khung xương và hình ảnh học thích hợp để đo chiều dài xương chày và mác. Chúng tôi đã đánh giá chiều dài, tỷ lệ và khoảng cách giữa xương chày và xương mác ở đầu trên và dưới khi xương trưởng thành và đánh giá sự di chuyển trên hình ảnh học của đầu trên xương mác.
Kết quả:
Tổng số 234 bệnh nhân đáp ứng các tiêu chí đề ra, bao gồm 112 trẻ em gái và 122 trẻ em trai. Tổng cộng, 179 bệnh nhân trải qua HSPT đầu trên xương mác đồng thời, và 55 bệnh nhân không. Nhóm HSPT xương mác nhỏ tuổi hơn đáng kể so với nhóm không làm (Tuổi trung bình: 12,3 so với 13,6), chiếm phần lớn sự khác biệt trước mổ ghi nhận giữa các nhóm. Trong nhóm bệnh nhân nhỏ tuổi hơn (Còn lại ≥ 2 năm tuổi tăng trưởng tại thời điểm HSPT), có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê khi khung xương trưởng thành xương giữa 2 nhóm bệnh nhân có và không HSPT xương mác, khác biệt trên khoảng cách đầu trên xương chày-mác (P <0,01) và tỷ lệ xương chày: Xương mác (0,96 ± 0,02 so với 0,98 ± 0,02; P <0,02), nhưng không có khác biệt theo khoảng cách đầu dưới chày – mác(P = 0,46). Dịch chuyển đầu trên xương mác được ghi nhận ở 10 bệnh nhân, trong đó có 5/179 làm đồng thời 2 xương và 5/55 không làm xương mác (P <0,01). Không có bệnh nhân nào có triệu chứng phát triển quá mức trên phim chụp X quang, và không có tổn thương dây thần kinh mác ở bất kỳ bệnh nhân nào trong nghiên cứu thuần tập này.
Kết luận:
Trên cơ sở của nghiên cứu này, việc HSPT xương mác dường như không cần thiết ở những bệnh nhân còn 2 năm tăng trưởng hoặc ít hơn, cũng như không ngăn chặn dứt điểm sự phát triển quá mức của đầu xương mác. Mặc dù tỷ lệ xương chày: Xương mác khá nhất quán trong đa số trường hợp, nhưng có những trẻ đầu xương tương đối to có thể thích hợp với HSPT, đặc biệt ở những bệnh nhân chưa trưởng thành.
Mức độ bằng chứng: Mức độ III- nghiên cứu so sánh hồi cứu
Sự khác biệt về chiều dài chân là bất thường phổ biến cần được điều trị ở trẻ em. HSPT đầu dưới xương đùi và/hoặc đầu trên xương chày là phương pháp điều trị phẫu thuật được chấp nhận rộng rãi cho những sai lệch nhỏ (2 đến 5 cm), hoặc kết hợp với các thủ thuật kéo dài chân bị ngắn để sửa chữa những sai lệch nghiêm trọng hơn. Phemister [1] là người đầu tiên mô tả HSPT, sử dụng kỹ thuật mổ hở. Green và Anderson đã trình bày một phân tích chi tiết hơn về kết quả và hiệu ứng rút ngắn (Bằng biểu đồ tăng trưởng còn lại). [2,3] Các biến đổi qua da của thủ thuật sau đó đã được giới thiệu, bao gồm nạo, khoan 4-7, [8,9] hoặc vít xuyên sụn. [10–12]
Phemister và các đồng nghiệp [1–3] khuyến cáo HSPT đầu trên xương mác được thực hiện đồng thời với HSPT đầu trên xương chày để giảm thiểu sự quá phát xương mác. Các tác giả tiếp theo đã khuyến khích HSPT mác đồng thời, [11] trong khi những người khác đã khuyên không nên bởi vì có nguy cơ tổn thương thần kinh mác, [13] hoặc thiếu sự quá phát xương mác khi xương vẫn còn tăng trưởng đáng kể. [7,14]
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã phân tích những thay đổi trong tỷ lệ chày: mác bằng phép đo tuyệt đối trên ảnh chụp cắt lớp, để giảm tác động của độ phóng đại và các lỗi chụp ảnh bức xạ liên quan. Giả thuyết nghiên cứu là chúng tôi sẽ xác định sự quá phát xương mác ở những bệnh nhân đã HSPT xương mác và bệnh nhân không có
Phương pháp
Từ một hội đồng đánh giá tổ chức – đã phê duyệt biểu đồ hồi cứu và phân tích hình ảnh học của 863 bệnh nhân được điều trị tại cơ sở của chúng tôi từ năm 1980 đến năm 2011 bằng phương pháp HSPT cho khác biệt về chiều dài chân, chúng tôi đã xác định các bệnh nhân đã trải qua HSPT đầu trên xương chày, có hoặc không HSPT đồng thời với đầu trên xương mác. Các cơ sở dữ liệu này là chủ đề các ấn phẩm giải quyết biến chứng của phương pháp HSPT [15] và độ chính xác của các phương pháp dự đoán thời gian. [16–18] Tiêu chí đưa vào nghiên cứu là HSPT đầu trên xương chày kèm hoặc không kèm theo xương mác để chỉnh sự bất thường chiều dài chân; hồ sơ bệnh án đầy đủ để xác nhận kỹ thuật phẫu thuật và vị trí HSPT; phim của chân phẫu thuật; và các hình ảnh chụp cắt lớp thích hợp để đo chiều dài xương chày, mác trước khi phẫu thuật (Trong vòng 4 tháng HSPT) và sau khi xương trưởng thành. Tiêu chí loại trừ bao gồm bệnh nhân chỉ HSPT đầu dưới xương đùi; bệnh nhân với hội chứng phát triển quá mức có thể xác định được (Ví dụ, u xơ thần kinh và hội chứng phát triển quá mức mạch máu); bệnh nhân có bệnh lý không đối xứng hai bên(Ví dụ: Bệnh Blount hai bên và khuyết tật chân bẩm sinh); hình ảnh học hoặc hồ sơ bệnh án không đầy đủ; phẫu thuật thêm trên cùng chi đã phẫu thuật HSPT và trước khi trưởng thành bộ xương; và các biến chứng phẫu thuật như sự cốt hóa sụn phát triển đầu trên xương chày không hoàn toàn.
Ảnh chụp cắt lớp những bệnh nhân đáp ứng tiêu chuẩn được đo lường và xác minh bởi các tác giả cao cấp. Ở các nghiên cứu liên quan trước đó đến cơ sở dữ liệu này, chúng tôi đã đánh giá độ tin cậy của quan sát viên và hệ số tương quan giữa các lớp được xác định dao động từ 0,97 đến 0,99 [17]; không thực hiện quan sát viên chính thức hoặc độ tin cậy của quan sát viên cho nghiên cứu này. Chúng tôi đo chiều dài của xương chày và xương mác, khoảng cách giữa đầu trên xương chày và đầu trên xương mác, và khoảng cách giữa trần chày và đầu dưới xương mác trên tất cả các hình ảnh chụp cắt lớp trước và sau phẫu thuật (Hình 1). Chúng tôi tính toán tỷ lệ xương chày: Xương mác trước mổ và tại thời điểm bản chụp cắt lớp cuối cùng. Chúng tôi cũng để ý sự di chuyển gần và/hoặc xa rõ rệt sau phẫu thuật của xương mác so với xương chày, xác nhận hiệu ứng HSPT bằng X-Quang ở đầu trên xương mác khi được thực hiện. Chúng tôi đã so sánh các phép đo hình ảnh học trong 2 nhóm: bệnh nhân HSPT trên xương mác, và những bệnh nhân không. Các nhóm cũng được phân tích về sự khác biệt dựa trên tuổi đời và tuổi xương (Trẻ gái nhỏ hơn hoặc trên 12 tuổi và các bé trai dưới hoặc trên 14 tuổi, như được xác định từ tập bản đồ Greulich và Pyle [19]).
Đối với phân tích thống kê, kiểm định χ2 được sử dụng để so sánh các biến phân loại và đối với cỡ mẫu nhỏ chúng tôi sử dụng kiểm định chính xác của Fisher. Đầu tiên, các biến liên tục được kiểm tra tính chuẩn mực của phân phối dữ liệu, sau đó kiểm tra phi tham số như Mann-Whitney được thực hiện để so sánh 2 nhóm. Ý nghĩa thống kê ở giá trị P <0,05.
Hình 1. Các phép đo được lấy từ phim chụp cắt lớp vi tính trước khi phẫu thuật và khi xương trưởng thành. “A” trùng với mâm chày ngoài, “B” là phần đỉnh nhất của đầu trên xương mác, “C” trùng với phần chính giữa trần chày và “D” là phần mở rộng xa nhất của xương mác. Khoảng cách “A-C” là chiều dài xương chày, “B-D” là chiều dài xương mác, A-B là khoảng cách giữa đầu trên xương chày và xương mác và C-D là khoảng cách giữa đầu dưới xương chày và xương mác.
Kết quả
Tổng cộng có 234 bệnh nhân đáp ứng các tiêu chuẩn đề ra, với 179 trẻ đã trải qua HSPT đầu trên xương mác và 55 người chưa trải qua. Có 112 trẻ em gái và 122 trẻ em trai. Các đặc điểm nhân khẩu học bao gồm cả kỹ thuật phẫu thuật được tóm tắt trong Bảng 1. Bảng 2 tóm tắt các tỷ lệ chày /mác và số đo trước phẫu thuật và khi xương trưởng thành.
Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học của nhóm nghiên cứu (234 bệnh nhân)
Đặc điểm Số (Phạm vi) .
Tuổi đời lúc phẫu thuật (Năm) 12,6 (7,7-16,5)
Tuổi xương * lúc phẫu thuật (năm) 12,8 (8-17)
Giới
Nam 122
Nữ 112
Với HSPT đầu trên xương mác 179
Không HSPT xương mác 55
Bảng 2. Số đo chày-mác trước phẫu thuật và khi trưởng thành
Các phép đo X quang trong Toàn bộ nghiên cứu thuần tập (234 Bệnh nhân)
Trung bình (Phạm vi)
Các thông số Trước phẫu thuật Trưởng thành Thay đổi
Chiều dài mác (cm) 34,7 36.3 1.6
(27,5-44,1) (30.0-45.1) (−0,3 đến 10,7)
Chiều dài chày (cm) 34,2 35.4 1,2
(26,9-44,4) (29,1-44,5) (−0,8 đến 10,0)
Tỷ lệ chày: Mác 0,99 0,98 −0.01
(0,94-1,06) (0,92-1,04) (−0,08 đến 0,03)
Khoảng cách chày-mác (cm)
Đầu trên 1,8 1,5 −0,2
(0,5-3,0) (0,3-2,6) (−1,5 đến 1,0)
Đầu dưới 2,2 2,4 0,2
(1,0-3,5) (0,9-3,4) (−0,9 đến 1,2)
Chúng tôi đã phân tích dữ liệu bằng sử dụng cả tuổi đời và tuổi xương. Bởi vì trước đây chúng tôi đã xác định sự tăng trưởng còn lại và hiệu ứng HSPT được dự đoán chính xác hơn bằng tuổi xương, [16,17] chúng tôi trình bày ở đây dữ liệu phân tích bằng cách sử dụng tuổi xương. Nhóm không HSPT xương mác lớn tuổi hơn đáng kể, và do đó, có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê về chiều dài của xương chày và xương mác, cũng như khoảng cách đầu trên xương chày-xương mác trước khi phẫu thuật và khi xương trưởng thành. Không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê về khoảng cách đầu dưới xương chày – xương mác. Ngoài ra, có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê về tỷ lệ chày: Mác trước mổ và sự thay đổi của tỷ lệ đó, nhưng không khác biệt khi trưởng thành. Bất chấp những khác biệt có ý nghĩa thống kê này, cần lưu ý rằng những khác biệt đó chỉ có vài mm và không có bệnh nhân nào trong nhóm thuần tập này ghi nhận khác biệt đó hoặc được điều trị quá phát xương mác có triệu chứng.
Bảng 3 tóm tắt chiều dài xương chày và xương mác, tỷ lệ chày: Mác, khoảng cách đầu trên và dưới xương chày-mác trong nhóm bệnh nhân còn ít nhất 2 năm tăng trưởng tại thời điểm phẫu thuật ( Tuổi xương 12 ở trẻ gái và 14 ở trẻ trai). Chúng bao gồm 79 có và 11 không HSPT đồng thời 2 xương. Trong nhóm bệnh nhân có độ tuổi tương đương này, không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê trong các phép đo trước phẫu thuật. Tuy nhiên, có sự khác biệt khi xương trưởng thành ở tỷ lệ chày;mác, chiều dài đầu trên và dưới chày-mác, và những thay đổi về độ dài.
Bảng 4 so sánh tỷ lệ chày: Mác và khoảng cách đầu trên và dưới xương chày-mác ở 11 bệnh nhân trẻ hơn và 44 bệnh nhân lớn tuổi hơn không HSPT xương mác. Ta thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm về tỷ lệ chày: Mác và khoảng cách đầu trên chày-mác; nhưng không khác biệt về khoảng cách đầu dưới chày-mác. Sự giảm khoảng cách đầu trên xương chày-mác (Liên quan đến quá xương mác) trung bình là 6 mm ở nhóm trẻ hơn.
Mười bệnh nhân được ghi nhận có sự rõ rệt của đầu trên trên phim chụp cắt lớp khi trưởng thành bộ xương (Hình 2), bao gồm 5/55 (9%) không có HSPT xương mác và 5/179 (2,8%) có HSPT xương mác (P <0,01). Ở 3 trong số 5 bệnh nhân sau này, sự tồn tại của sụn phát triển đầu trên xương mác được ghi nhận bằng X quang trong quá trình theo dõi. Tuy nhiên, như đã lưu ý ở trên, không có bệnh nhân nào có sự quá phát xương mác đi kèm triệu chứng trong quá trình theo dõi. Không có biến chứng ở bất kỳ bệnh nhân nào đã tiến hành HSPT xương mác trong nhóm thuần tập này.
Bảng 3. So sánh các phép đo trên hình ảnh học trước phẫu thuật, khi xương trưởng thành và các thay đổi hậu phẫu ở bệnh nhân có và không HSPT xương mác và còn tăng trưởng ít nhất 2 năm (90 Bệnh nhân) .
Trung bình ± SD
Số đo Có HSPT xương mác Không HSPT mác P
(79 BN) (11 BN)
Tuổi xương tiền phẫu† 11,7 ± 1,5 12,0 ± 1,7 0,55
Độ dài chày tiền phẫu (cm) 32,8 ± 3,1 33,3 ± 2,9 0,67
Độ dài chày
trưởng thành 35,1 ± 2,7 35,5 ± 2,4 0,69
Thay đổi độ dài chày 2,3 ± 1,4 2,2 ± 1,8 0,46
Độ dài mác tiền phẫu 33,2 ± 3,0 33,6 ± 2,9 0,68
Độ dài mác tại
trưởng thành (cm) 35,9 ± 2,7 36,9 ± 2,3 0,26
Thay đổi độ dài mác 2,7 ± 1,5 3,3 ± 1,9 0,57
Tỷ lệ chày: Mác tiền phẫu 0,99 ± 0,01 0,99 ± 0,02 0,50
Tỷ lệ chày: Mác
trưởng thành 0,98 ± 0,02 0,96 ± 0,02 0,02
Thay đổi TL chày: Mác −0,01 ± 0,02 −0,03 ± 0,01 <0,01
Khoảng cách đầu trên
chày mác tiền phẫu 1,8 ± 0,4 1,6 ± 0,3 0,10
Khoảng cách đầu trên
chày mác trưởng thành 1,6 ± 0,5 1,1 ± 0,4 <0,01
Khoảng cách đầu dưới
chày-mác tiền phẫu 2,2 ± 0,4 2,0 ± 0,4 0,07
Khoảng cách đầu dưới
chày-mác trưởng thành 2,4 ± 0,4 2,5 ± 0,5 0,46
* Thử nghiệm Mann-Whitney. Ý nghĩa thống kê được đặt ở mức P <0,05.
† Phim tay xác định tuổi xương bằng atlas Greulich và Pyle.
Bảng 4. So sánh các số đo hình ảnh học tiền phẫu, khi xương trưởng thành bộ xương và các thay đổi hậu phẫu ở bệnh nhân nhỏ và lớn tuổi hơn không HSPT mác (55 Bệnh nhân)
Lớn hơn*† Nhỏ hơn † ‡ P§
Số đo (44 bệnh nhân) (11 Bệnh nhân)
Tỷ lệ chày: Mác
trưởng thành 0,98 ± 0,02 0,96 ± 0,02 0,02
Thay đổi tỷ lệ chày: Mác −0,01 ± 0,01 −0,03 ± 0,01 <0,01
Khoảng cách đầu trên
chày-mác trưởng thành 1,7 ± 0,5 1,1 ± 0,4 <0,01
(cm)
Khoảng cách đầu dưới
chày-mác trưởng thành 2,4 ± 0,5 2,5 ± 0,5 0,53
* Tuổi xương trẻ gái trên 12, trai trên 14 tuổi.
† Phim tay xác định tuổi xương bằng atlas Greulich và Pyle.
‡ Tuổi xương trẻ gái từ 12 tuổi trở xuống, trẻ trai từ 14 tuổi trở xuống.
- Mann-Whitney kiểm tra. Ý nghĩa thống kê được đặt ở mức P <0,05.
Hình 2. Một bệnh nhân có di chuyển đầu trên xương mác khi xương trưởng thành g. Khoảng cách đầu trên chày-mác <2 mm.
Bàn luận
Phemister và các đồng nghiệp [1-3] ban đầu khuyến cáo về HSPT mác đồng thời với xương chày để giảm thiểu quá phát xương mác. Ngược lại, các báo cáo về tổn thương thần kinh mác của Green và Anderson [2,3] và Stephens cùng cộng sự [13] đã khiến các tác giả sau này khuyến cáo rằng không thực hiện HSPT đầu trên xương mác khi “ vẫn còn <3 đến 4 năm tăng trưởng.” Mặc dù họ ghi nhận sự quá phát trên phim X quang ở 5/10 bệnh nhân không thực hiện HSPT xương mác nhưng không có bệnh nhân nào có triệu chứng. Việc bỏ qua đầu trên xương mác là phù hợp với các kỹ thuật xuyên da vì việc bộc lộ đầu trên xương mác cần rạch da. Tuy nhiên, các tác giả mô tả kỹ thuật qua da đã bỏ qua đầu trên mác, [5] thực hiện nó thông qua rạch da chính giữa đầu trên, [6,11] hoặc khuyến nghị HSPT xương mác trong một số trường hợp. [7] Metaizeau và công sự đề xuất kỹ thuật bắt vít xuyên sụn trong HSPT xương mác, lưu ý 3 trường hợp biến dạng vẹo trong sau phẫu thuật có thể là do quá phát xương mác ở bệnh nhân đã can thiệp gây giảm tốc độ phát triển của xương chày > 2 cm. Gabriel và cộng sự [7] trong một nghiên cứu trên 16 bệnh nhân HSPT xương chày không kèm HSPT xương mác, đã ghi nhận không có triệu chứng nào và khuyến cáo rằng không nên thực hiện thường quy HSPT xương mác. McCarthy và cộng sự [14] đã đánh giá cụ thể sự quá phát xương mác ở những bệnh nhân không thực hiện đồng thời HSPT xương mác. Họ xác định sự quá phát xương mác trung bình là 6,8 mm ở 33 bệnh nhân được điều trị mà không có HSPT xương mác đồng thời so với 3,1mm ở 11 bệnh nhân có HSPT xương mác đồng thời và ước tính rằng sự quá phát xương mác xảy ra với tốc độ ∼3mm/ năm tăng trưởng. Chỉ có 1 bệnh nhân, quá phát xương mác đến 25mm, là có triệu chứng. Họ khuyến nghị chỉ HSPT xương mác khi “sự quá phát xương mác dự kiến vượt quá 1 đến 2 cm”.
Khi bắt tay vào nghiên cứu này, chúng tôi dự đoán rằng chúng tôi sẽ xác định được những bệnh nhân đã trải qua giai đoạn HSPT đầu trên xương chày mà không có xương mác đồng thời có nhiều khả năng bị quá phát xương mác. Tỷ lệ quá phát xương mác trên X quang là nhỏ và xảy ra ở cả bệnh nhân có hoặc không HSPT xương mác đi kèm. Có nhiều cách giải thích cho điều này. Đầu tiên, trong nhóm có HSPT xương mác, một số bệnh nhân vẫn có sự phát triển liên tục của sụn mác dù đã bị hãm. Hiện tượng phát triển liên tục sau khi HSPT ở đầu dưới xương đùi hoặc đầu trên xương chày đã được ghi nhận ở ∼4% bệnh nhân tại viện nghiên cứu của chúng tôi.[15] Giả định một tỷ lệ tương tự cho xương mác là hợp lý. Chúng tôi có thể xác nhận rằng không có hiệu ứng HSPT trên X quang ở 3 trong số 5 bệnh nhân có sự quá phát xương mác, trong khi ở những bệnh nhân khác, các sụn phát triển xương mác có vẻ như đã đóng lại như mong đợi. Thứ hai, ở những bệnh nhân không có HSPT mác, có thể có sự giảm tốc độ phát triển xương mác thụ động, tương tự như hiện tượng ở cẳng tay, nơi mà sự gián đoạn phát triển bình thường của xương quay hoặc xương trụ thường dẫn đến cầu hóa và rút ngắn cẳng tay. Không có bệnh nhân nào trong nghiên cứu này phàn nàn về triệu chứng quá phát xương mác cũng như bất kỳ điều trị cho điều này. Không có bệnh nhân nào trong nhóm thuần tập này bị tổn thương thần kinh mác, mặc dù chúng tôi cũng đã ghi nhận tình trạng rối loạn chức năng thần kinh mác thoáng qua sau phẫu thuật, ở những bệnh nhân không nằm trong nhóm.
Mặc dù chúng tôi không xác định được sự quá phát đáng kể về mặt lâm sàng của đầu trên xương mác ở những bệnh nhân không HSPT xương mác đồng thời nói chung, cần lưu ý rằng có một xu hướng quá phát ở những bệnh nhân trẻ tuổi (những bệnh nhân còn lại nhiều hơn 2 năm phát triển). Chúng tôi tin rằng những phát hiện này ủng hộ cho việc HSPT xương mác đồng thời với xương chày ở những bệnh nhân còn lại ít nhất 2 năm tăng trưởng.
Chúng tôi đã ghi nhận như McCarthy và cộng sự [14] đã thực hiện trong một loạt nghiên cứu lâm sàng, một sự quá phát xương mác nhỏ và không nghiêm trọng về mặt lâm sàng ở nhóm bệnh nhân không HSPT xương mác. Điều này có thể là do sự cứng chắc xương và mô mềm của vùng đầu dưới xương mác so với vùng đầu trên nhưng chúng tôi chỉ phỏng đoán như vậy. Cần lưu ý rằng phương pháp nghiên cứu của chúng tôi khác với phương pháp của McCarthy và cộng sự, [14] nghiên cứu lớn duy nhất khác đề cập cụ thể đến tỷ lệ và độ lớn của sự quá phát xương mác sau khi HSPT. Do sự khác biệt về tuổi tác giữa 2 nhóm, sự thay đổi về chiều dài tuyệt đối của xương chày và xương mác, và có thể có một số thay đổi về độ phóng đại trong phim X quang (Theo ghi nhận của Metaizeau và cộng sự [11]), chúng tôi tin rằng so sánh tỷ lệ chày: Mác thay đổi phản ánh chính xác hơn tác động của việc thực hiện đồng thời HSPT xương mác.
Có sự khác biệt giữa tỷ lệ phần trăm đóng góp cho sự phát triển chiều dọc xương của sụn tăng trưởng xương chày và xương mác (Tương ứng là 57% và 60%). Sự liên hệ chéo sụn tiếp hợp xương chày và xương mác ở trẻ em được ghi nhận để tạo ra sự thay đổi dự kiến ở đầu trên và dưới xương chày-mác (sự di chuyển tương đối đầu trên xương mác khi hai kết thúc). [21] Một tác dụng phụ tiềm ẩn khi đồng thời HSPT xương mác, đặc biệt là ở những bệnh nhi nhỏ tuổi, có thể là sự ngắn lại tương đối của xương mác (Và sự di chuyển lên của mắt cá ngoài). Tuy nhiên, chúng tôi không phát hiện thấy sự bất thường như vậy trong nhóm bệnh nhân của chúng tôi. Ngoài ra, cốt hóa sụn phát triển làm tăng chiều dài đo được của xương mác. Chúng tôi không thể ghi lại mức độ tăng trưởng như vậy từ nghiên cứu này.
Khi xem xét các hình ảnh chụp cắt lớp của nhóm thuần tập này, mặc dù tỷ lệ chày: Mác phù hợp đáng kể với SD tương đối hẹp, chúng tôi đã ghi nhận những bệnh nhân có đầu trên xương mác gần hoặc xa hơn so với sụn phát triển xương chày hơn mức trung bình. Đầu trên xương mác trên X quang thường bao phủ sụn tiếp hợp xương chày ở hầu hết các bệnh nhân tuổi vị thành niên (Hình 3A). Chúng tôi khuyên bác sĩ phẫu thuật nên đánh giá cụ thể mối liên hệ của đầu trên xương mác với xương chày, và xem xét không thực hiện HSPT xương mác trong trường hợp nó xuất hiện thiểu sản tương đối (Hình 3B). Tương tự, khi đầu trên xương mác trồi lên tương đối tại thời điểm phẫu thuật (Hình 3C), nên xem xét HSPT xương mác.
Hình 3. A – C, Các biến thể trong mối tương quan của đầu trên xương mác với xương chày. A, Mối tương quan phổ biến nhất là đầu trên xương mác kết thúc ở mức gần sụn tiếp hợp của xương chày, khoảng cách trung bình là 1,6 cm trong nghiên cứu này. B, Thiểu sản xương mác tương đối ở một đối tượng bình thường. Lưu ý rằng đầu trên xương mác chạm đến mức sụn tiếp hợp của đầu trên xương chày. Một bệnh nhân như vậy sẽ không yêu cầu HSPT xương mác. C, Đầu trên xương mác trồi lên ở một bệnh nhân bình thường. Lưu ý vị trí tương đối gần của chỏm mác so với sụn tiếp hợp xương chày. Xem xét mạnh việc HSPT xương mác trong trường hợp như vậy.
Nghiên cứu này có những hạn chế của bất kỳ biểu đồ hồi cứu và ảnh chụp X quang nào, bao gồm cả sai lệch lựa chọn và nhóm thuần tập tương đối nhỏ. Nhiều bệnh nhân phải loại trừ vì không đủ phim chụp để tự tin đo toàn bộ chiều dài của xương chày và xương mác hoặc không đủ các phim chụp tay theo tuổi xương. Theo ghi nhận của Metaizeau và cộng sự, [11] hình ảnh cắt lớp không loại trừ khả năng sai số đo. Chúng tôi đã không tính đến sự khác biệt trong tăng trưởng đầu trên xương. Cuối cùng, việc xác định tuổi xương phụ thuộc vào sự thay đổi của quan sát viên. [22]
Kết luận
Chúng tôi không tìm thấy trong nhóm thuần tập này sự quá phát xương mác đáng kể ở những bệnh nhân đang trải qua giai đoạn HSPT xương chày không kèm xương mác. Ngoài ra, việc thực hiện HSPT xương mác không đảm bảo ngăn ngừa sự quá phát xương mác, cũng như không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ chày: Mác khi trưởng thành ở các nhóm được điều trị có hoặc không đồng thời HSPT xương mác. Mặc dù có thể thực hiện đồng thời HSPT đầu trên xương mác một cách an toàn ở đại đa số bệnh nhân, việc đưa vào cơ thể nên được xem xét với những bệnh nhân có vị trí đầu trên xương mác trước phẫu thuật và những bệnh nhân còn lại ít nhất 2 năm tăng trưởng. Bệnh nhân cần được theo dõi về sự dịch chuyển của đầu trên xương mác trong giai đoạn hậu phẫu, bất kể đã thực hiện HSPT xương mác hay chưa.
DOI: 10.1097 / BPO.0000000000001642
Trích dẫn bài viết: Có cần thiết phải biểu hiện sợi cơ gần khi thực hiện biểu hiện sợi cơ gần không?
Tài liệu tham khảo
- Phemister DB. Operative arrestment of longitudinal growth of bones in the treatment of deformities. J Bone Joint Surg. 1933;15:1.
- Green WT, Anderson M. Experiences with epiphyseal arrest in correcting discrepancies in length of the lower extremities in infantile paralysis. J Bone Joint Surg. 1947;29:659.
- Green WT, Anderson M. Epiphyseal arrest for correction of discrepancies in length of the lower extremities. J Bone Joint Surg Am. 1957;39:853.
- Bowen JR, Johnson WJ. Percutaneous epiphysiodesis. Clin Orthop Relat Res. 1984;190:170–173.
- Inan M, Chan G, Littleton AG, et al. Efficacy and safety of percutaneous epiphysiodesis. J Pediatr Orthop. 2008;28:648–651.
- Timperlake RW, Bowen JR, Guille JT, et al. Prospective evaluation of fifty-three consecutive percutaneous epiphysiodesis of the distal femur and proximal tibia and fibula. J Pediatr Orthop. 1991;11:350–357.
- Gabriel KR, Crawford AH, Roy DR, et al. Percutaneous epiphysiodesis. J Pediatr Orthop. 1994;14:358–362.
- Canale ST, Russell TA, Holcomb RL. Percutaneous epiphysiodesis: experimental study and preliminary clinical results. J Pediatr Orthop. 1986;6:150–156.
- Ogilvie JW. Epiphysiodesis: evaluation of a new technique. J Pediatr Orthop. 1986;6:147–149.
- Khoury JG, Tavares JO, McConnell S, et al. Results of screw epiphysiodesis for the treatment of limb length discrepancy and angular deformity. J Pediatr Orthop. 2007;27:623–628.
Để đọc chi tiết bài nghiên cứu, vui lòng truy cập tại đây.
Nguồn tham khảo: Theo pubmed.ncbi.nlm.nih.gov