MỚI

Ngày xuất bản: 02/12/2025

1. Gánh nặng toàn cầu và tầm quan trọng của phát hiện sớm HCC Ung thư biểu mô tế bào gan (hepatocellular carcinoma – HCC) là dạng phổ biến nhất của ung thư gan nguyên phát, chiếm khoảng 70–85% tổng số trường hợp ung thư gan trên toàn cầu (Bray et al., 2024). Đây là một trong những ung thư có tỷ lệ tử vong cao nhất do bản chất diễn tiến âm thầm, triệu chứng không rõ ràng và khả năng di căn sớm.Một thách thức lớn trong quản lý HCC là phần lớn bệnh nhân chỉ được chẩn đoán khi bệnh đã ở giai đoạn trung bình hoặc muộn, làm giảm đáng kể hiệu quả điều trị.

Tin tức

Ngày xuất bản: 02/12/2025

I. Tóm tắt Hồ sơ phân tử đã trở nên không thể thiếu cho việc chẩn đoán u não chính xác, tuy nhiên các kỹ thuật sinh học phân tử truyền thống đang phức tạp, tốn thời gian và đắt đỏ. Giải trình tự Oxford Nanopore Technologies (ONT) hiện cho phép thực hiện xét nghiệm phân tử toàn diện, trong cùng ngày, trực tiếp từ mô u. Rapid-CNS2 đã được xác nhận tích hợp phân tích đột biến, số lượng bản sao và methyl hóa vào một xét nghiệm duy nhất. Kỹ thuật này có thể cung cấp kết quả trong vòng 24 giờ, thậm chí có thể cho kết quả trong vòng 30 phút khi bệnh nhân đang được phẫu thuật—với chi phí chỉ bằng một phần nhỏ so với phương pháp truyền thống. Bài viết này giới thiệu về chẩn đoán phân tử dựa trên ONT, nhấn mạnh tốc độ, tính linh hoạt và khả năng tiếp cận của ONT. Những yếu tố này cùng nhau giúp xét nghiệm sinh học phân tử chất lượng cao trở nên khả thi ngay cả ở các khoa nghiệm giải phẫu bệnh quy mô nhỏ ở trên toàn thế giới.

Tin tức

Ngày xuất bản: 02/12/2025

Nhiễm trùng đường hô hấp là một trong những nhóm bệnh phổ biến và gây gánh nặng lớn cho hệ thống y tế, đặc biệt trong những thời điểm giao mùa, ẩm và lạnh. Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng chủ yếu ở trẻ em, người già, người suy giảm miễn dịch. Bệnh do nhiều căn nguyên khác nhau gây nên như virus (cúm A/B, RSV, adenovirus, SARS-CoV-2, rhinovirus…), vi khuẩn (Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenzae, Mycoplasma pneumoniae, Chlamydia pneumoniae, Bordetella pertussis…), nấm. Việc chẩn đoán sớm và chính xác nguyên nhân gây bệnh có ý nghĩa quan trọng trong điều trị, lựa chọn kháng sinh hợp lý và kiểm soát dịch bệnh. Tuy nhiên, các phương pháp truyền thống như nuôi cấy, test nhanh, PCR đơn mồi thường mất nhiều thời gian, độ nhạy không cao, và không phát hiện được đồng nhiễm. Trong những năm gần đây, kỹ thuật PCR đa mồi (multiplex PCR) đã trở thành công cụ hiệu quả trong xét nghiệm vi sinh đường hô hấp do có thể phát hiện đồng thời nhiều căn nguyên gây bệnh trong một lần xét nghiệm, giúp rút ngắn thời gian trả kết quả, tăng hiệu quả và giảm chi phí điều trị.

Tin tức

Ngày xuất bản: 28/11/2025

TÓM TẮT Mục tiêu: Mô tả thực trạng rối loạn lipid máu (RLLM) và phân tích một số yếu tố liên quan ở người trưởng thành đến khám sức khỏe định kỳ tại Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec Smart City.Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 2131 người trưởng thành (≥ 18 tuổi) đến khám sức khỏe định kỳ. Thu thập các dữ liệu về nhân khẩu học, nhân trắc, huyết áp và các chỉ số lipid máu. Chẩn đoán RLLM dựa theo tiêu chuẩn của NCEP-ATP III (2001). Phân tích mối liên quan bằng kiểm định khi bình phương (χ2), với p<0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê.Kết quả: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 39,6 ± 13,4 tuổi, tỷ lệ nữ giới chiếm 55,5%. Tỷ lệ thừa cân, béo phì chiếm 51,4%. Tỷ lệ RLLM chung là 69,5%. Trong đó, tăng LDL-C chiếm tỷ lệ cao nhất (43,2%), tiếp theo là tăng Triglycerid (35,3%), tăng Cholesterol toàn phần (35,0%) và giảm HDL-C (32,8%). Các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê với tỷ lệ RLLM cao hơn bao gồm: giới tính nam (76,9% so với 63,6% ở nữ), tuổi > 35 (78,6% so với 59,9% ở nhóm ≤ 35 tuổi), thừa cân/béo phì (81,1% so với 59,6% ở nhóm BMI bình thường và 31,8% ở nhóm gầy) và có tăng huyết áp (81,5% so với 67,2% ở nhóm không tăng huyết áp) (p<0,001).Kết luận: Tỷ lệ rối loạn lipid máu ở nhóm người trưởng thành đi khám sức khỏe định kỳ là rất cao, đặc biệt là tình trạng tăng LDL-C. Giới tính nam, tuổi trên 35, thừa cân, béo phì và tăng huyết áp là những yếu tố nguy cơ quan trọng.

Tin tức

Ngày xuất bản: 28/11/2025

TÓM TẮT Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm So sánh hiệu quả giảm đau của phương pháp tiêm ngắt quãng tự động bằng hỗn hợp Anaropin 0,08% và Fentanyl 1mcg/ml so với anaropin 0,1% và Fentanyl 1mcg/ml khi gây tê ngoài màng cứng trong chuyển dạ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên được áp dụng trong nghiên cứu này. Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn được sử dụng để thu thập 83 sản phụ và chia thành hai nhóm, nhóm 1 anaropin 0,1% và Fentanyl 1mcg/ml và nhóm 2 sử dụng Anaropin 0,08% và Fentanyl 1mcg/ml. Kết quả: Hầu như không có sự khác biệt về điểm đau VAS giữa nhóm sử dụng Anaropin 0,1% và Anaropin 0,08%. Tại giai đoạn cổ tử cung mở hết và giai đoạn rặn đẻ điểm VAS trung bình của nhóm sử dụng Anaropin 0,08% cao hơn so với nhóm sử dụng Anaropin 0,1%. Mức độ hài lòng của nhóm sử dụng Anaropin 0,08% cao hơn so với nhóm sử dụng Anaropin 0,1%. Kết luận: Anaropin 0,08% có hiệu quả giảm đau tương đồng tuy nhiên khối lượng thuốc sử dụng thấp hơn, tác dụng không mong muốn có tỷ lệ thấp hơn và mức độ hài lòng cao hơn so với Anaropin 0,1%.

Tin tức

Ngày xuất bản: 28/11/2025

1. Giới thiệu:Ung thư nội mạc tử cung là loại ung thư phổ biến thứ tư ở phụ nữ trên toàn thế giới và là bệnh ác tính phụ khoa phổ biến nhất ở các nước phát triển. Đây là một chủ đề quan trọng trong lĩnh vực sức khỏe phụ nữ, và đối với các chuyên gia y tế, việc nắm vững vai trò của chẩn đoán hình ảnh (CĐHA) không chỉ là một yêu cầu học thuật mà còn là một kỹ năng cốt lõi để đảm bảo chăm sóc tốt nhất cho bệnh nhân.Mục tiêu của bài viết này là giải thích những kiến thức cơ bản về ung thư nội mạc tử cung, vai trò quan trọng của các kỹ thuật CĐHA như siêu âm và chụp cộng hưởng từ (MRI), đồng thời cập nhật hệ thống phân giai đoạn FIGO mới nhất 2023

Tin tức

Ngày xuất bản: 27/11/2025

U nhú đám rối mạch mạc (CPP) là khối u nội sọ lành tính hiếm gặp, được phân loại là khối u ác tính độ I theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và chiếm 0,4% -1% trong tất cả các khối u nội sọ. Ở người lớn, u nhú đám rối mạch mạc điển hình gặp ở não thất IV trong khi ở trẻ em chúng thường phát triển ở não thất bên. U nhú đám rối mạch mạc xuất phát từ các vị trí ngoài não thất là cực kỳ hiếm gặp và khó chẩn đoán. Chúng tôi báo cáo trường hợp bệnh nhân nam 41 tuổi bị đau đầu vùng chẩm kéo dài vài tuần và thỉnh thoảng giảm thị lực. Hình ảnh cộng hưởng từ sọ não trước và sau tiêm Gadolinium tĩnh mạch phát hiện khối nằm ở góc cầu tiểu não trái, giảm nhẹ tín hiệu không đồng nhất trên T1, tăng nhẹ trên T2, FLAIR, SWAN, 3D CUBE, không hạn chế khuếch tán, ngấm thuốc đối quang từ mạnh không đồng nhất sau tiêm. Bệnh nhân được phẫu thuật bóc u một phần. Mô bệnh học cho thấy mẫu mô được cấu tạo các cấu trúc dạng nhú lót bởi tế bào vuông đơn, nhân tế bào sáng, có hạt nhân. Xét nghiệm hóa mô miễn dịch cho kết quả dương tính đối với CK7(1+), GFAP(+),  âm tính đối với TTF-1. Chẩn đoán cuối cùng: U nhú đám rối mạch mạc. Bệnh nhân được điều trị phối hợp xạ phẫu Gamma sau phẫu thuật và theo dõi sát lâm sàng và hình ảnh MRI.

Tin tức

Ngày xuất bản: 27/11/2025

1. GIỚI THIỆU Lupus ban đỏ hệ thống (SLE-Systemic lupus erythematosus) là bệnh tự miễn có ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong cơ thể, với nhiều triệu chứng và biến chứng đa dạng. Trong đó điển hình với các triệu chứng như sốt, đau khớp, mệt mỏi, phát ban ở mặt, rụng tóc … [1].Các biểu hiện tâm thần kinh của Lupus ban đỏ hệ thống (NPSLE- Neuropsychiatric Systemic lupus erythematosus ) thường xuất hiện sớm trong quá trình mắc bệnh, với tỷ lệ mắc cao hơn ở phụ nữ trẻ. Tổn thương tâm thần kinh của Lupus ban đỏ hệ thống có tỷ lệ mắc lên đến 45%  bệnh nhân SLE [2]. Các biểu hiện lâm sàng của NPSLE có thể đau đầu, rối loạn nhận thức, rối loạn hành vi, lú lẫn, loạn thần, đột quỵ và co giật.Cơ chế bệnh sinh tổn thương thần kinh của Lupus ban đỏ hệ thống là đa yếu tố và có thể liên quan đến nhiều loại cytokine gây viêm, kháng thể và phức hợp miễn dịch gây tổn thương tế bào thần kinh, do bệnh lý mạch máu [3].

Tin tức

Ngày xuất bản: 24/11/2025

I. Sự cần thiết của một mô hình mới trong chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp Trong nhiều thập kỷ, mô hình nhồi máu cơ tim có ST chênh lên (STEMI) và không có ST chênh lên (NSTEMI) đã là nền tảng cho việc ra quyết định lâm sàng, hướng dẫn các liệu pháp tái tưới máu khẩn cấp cho bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp (AMI). Mô hình này, được thiết lập để xác định những bệnh nhân có khả năng hưởng lợi từ liệu pháp tiêu sợi huyết, sử dụng đoạn ST chênh lên trên điện tâm đồ (ECG) như một dấu hiệu thay thế cho tình trạng tắc nghẽn động mạch vành cấp (ACO). Tuy nhiên, bằng chứng ngày càng tăng cho thấy mô hình này có những hạn chế nghiêm trọng và không đủ để xác định tất cả các bệnh nhân cần can thiệp khẩn cấp.Vấn đề cốt lõi nằm ở độ nhạy thấp của tiêu chuẩn STEMI. Các nghiên cứu và phân tích gộp đã chỉ ra rằng các tiêu chuẩn ECG này bỏ sót một tỷ lệ đáng kể bệnh nhân bị tắc nghẽn động mạch vành thực sự. Một phân tích gộp gần đây đã báo cáo độ nhạy chỉ là 43,6% trong việc phát hiện ACO, có nghĩa là hơn một nửa số bệnh nhân bị tắc nghẽn động mạch vành cấp không được xác định bởi các tiêu chí truyền thống này. Hậu quả là, có khoảng 25-30% bệnh nhân được chẩn đoán là NSTEMI thực chất bị tắc nghẽn cấp không được nhận biết, dẫn đến sự chậm trễ trong việc điều trị tái tưới máu và kết quả lâm sàng xấu hơn.

Tin tức

Ngày xuất bản: 24/11/2025

1. Định nghĩa Hiện tượng không có dòng chảy, hoặc dòng chảy chậm (slow flow), được định nghĩa là tình trạng tưới máu cơ tim ở thượng tâm mạc không đủ (dòng chảy TIMI 0-1), mặc dù phim chụp động mạch vành (ĐMV) không cho thấy hình ảnh tắc hẹp mạch máu rõ ràng. Một số tác giả coi mức độ tưới máu cơ tim (Myocardial Blush Grade, MBG) độ 0 và 1 là tương đương với “không có dòng chảy”, bất kể dòng chảy TIMI ra sao.Hiện tượng này thường gặp khi can thiệp ĐMV cho bệnh nhân nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp hoặc các trường hợp can thiệp phức tạp như can thiệp cầu nối tĩnh mạch hiển, hay cần dùng dụng cụ khoan cắt mảng xơ vữa (rotablator). Cần chẩn đoán phân biệt không có dòng chảy với huyết khối, tắc mạch do khí, lóc tách ĐMV, hoặc co thắt nặng ĐMV. Luôn nghĩ đến hiện tượng này nếu sau khi tái thông ĐMV, bệnh nhân vẫn còn đau ngực nhiều, ST không giảm chênh, hoặc ST chênh lên mới, hoặc rối loạn huyết động.
Trang
của 324
'