MỚI

Ngày xuất bản: 30/10/2025

1. Tóm tắt Mục đích: Trình bày một trường hợp Actinomycosis buồng trứng giả khối ác tính và tổng hợp các bài báo trong y văn nhằm rút ra kinh nghiệm chẩn đoán và điều trị.Trình bày ca: Bệnh nhân nữ 43 tuổi, có tiền sử đặt dụng cụ tử cung (IUD) trong nhiều năm, nhập viện vì đau bụng vùng hạ vị kéo dài và nhiều đợt viêm phần phụ tái diễn. Siêu âm và CT cho thấy khối vùng chậu phải nghi ngờ ung thư buồng trứng. Bệnh nhân được phẫu thuật nội soi, lấy khối u đặc nghi ngờ ung thư; giải phẫu bệnh thấy mô viêm xơ, ổ mủ, kèm mô viêm hạt mạn tính, vi khuẩn dạng sợi, nhuộm Gram có hình ảnh đặc trưng của Actinomyces. Sau mổ, bệnh nhân được điều trị kháng sinh liều cao kéo dài, đáp ứng tốt, không tái phát sau theo dõi.Kết luận: Actinomycosis vùng chậu cần được cân nhắc trong chẩn đoán phân biệt các khối vùng chậu không điển hình, đặc biệt ở bệnh nhân có tiền sử đặt IUD lâu năm. Giải phẫu bệnh là tiêu chuẩn vàng; điều trị kết hợp phẫu thuật và kháng sinh kéo dài mang lại tiên lượng tốt.

Tin tức

Ngày xuất bản: 30/10/2025

I. Ung thư cổ tử cung là gì? Ung thư cổ tử cung là ung thư bắt đầu từ các tế bào cổ tử cung. Cổ tử cung là phần dưới, hẹp của tử cung (dạ con). Cổ tử cung nối tử cung với âm đạo (ống sinh). Ung thư cổ tử cung thường phát triển chậm theo thời gian. Trước khi ung thư xuất hiện ở cổ tử cung, các tế bào cổ tử cung trải qua những thay đổi được gọi là tổn thương loạn sản. Theo thời gian, nếu không được kiểm soát hoặc loại bỏ, các tế bào bất thường có thể phát triển thành tế bào ung thư, đâu tiên là phát triển tại chỗ tiếp đến là lan rộng và sâu hơn vào cổ tử cung và các khu vực xung quanh.

Tin tức

Ngày xuất bản: 30/10/2025

TÓM TẮT Gần đây, tê thần kinh ngoại vi được áp dụng rộng rãi để điều trị đau sau mổ do phương pháp này có nhiều lợi điểm. Tuy nhiên, thời gian tác dụng không thể kéo dài nếu chỉ thực hiện gây tê một liều. Do đó, trong thực hành lâm sàng các bác sỹ gây mê thường pha thêm một loại thuốc khác vào thuốc tê nhằm làm tăng thời gian giảm đau cho người bệnh. Dexamethasone là một trong các loại tá dược được áp dụng phổ biến dùng trong gây tê thần kinh ngoại vi mặc dù đã có ghi nhận hiện tượng gây chết tế bào thần kinh khi thực nghiệm trên chuột. Cơ chế để kéo dài thời gian tác dụng của gây tê do dexamethasone có thể bao gồm giảm hoạt động của sợi C cảm thụ thông qua tác động trực tiếp trên thụ thể glucocorticoid, tác dụng ức chế trực tiếp kênh kali, hoặc do tác dụng kháng viêm toàn thân. Mặc dù được chứng minh mang lại nhiều lợi ích qua các thử nghiệm lâm sàng, nhưng hiện nay cách dùng pha dexamethasone để tiêm quanh thần kinh  chưa được Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ thông qua (FDA) và vẫn được sử dụng như một cách không chính thức (off-label). Một đường dùng khác của dexamethasone là  tiêm tĩnh mạch cũng đã chứng minh được hiệu quả giảm đau và kháng viêm toàn thân. Như vậy, giữa tiêm dexamethasone quanh thần kinh và tiêm tĩnh mạch, đâu mới là cách dùng tối ưu hơn?

Tin tức

Ngày xuất bản: 25/10/2025

Tóm tắt:Mục tiêu: Nghiên cứu sự thay đổi chỉ số Tei kinh điển và Tei cải biên hai thất ở bệnh nhân hở van hai lá (HoHL) và mối tương quan giữa chỉ số Tei hai thất với các thông số siêu âm khác. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có so sánh giữa nhóm HoHL với người bình thường (từ 4/2012 đến 5/2013) tại Bệnh viện Tim Hà Nội. Kết quả: Có 78 bệnh nhân HoHL, tỉ lệ nam/nữ = 1.44/1, chỉ số Tei và Tei’ đánh giá chức năng thất trái, thất phải có giá trị lớn hơn ở nhóm bệnh so với nhóm chứng. Chỉ số Tei và Tei’ thất trái tương quan thuận chặt với nhau (r = 0,74; p< 0,001) và tương quan thuận với các chỉ số đường kính nhĩ trái (r = 0,49; 0,6; p<0,001), đường kính thất trái cuối tâm thu (r = 0,48; 0,55; p <0,001), đường kính dòng hở hai lá tại gốc (r = 0,6; 0,75; p < 0,001), diện tích hở hai lá/diện tích nhĩ trái (r = 0,59; 0,74;  p<0,001), đường kính trước sau vòng van hai lá (r = 0,44; 0,54; p < 0,001), phân số tống máu EF (r = -0,224; -0,269; p <0,05), áp lực động mạch phổi (r = 0,376; 0,465; p < 0,005) cũng như chỉ số tim ngực (r = 0,47; 0,58; p < 0,001). Chỉ số Tei’ thất phải tương quan thuận với thất trái (r: 0,538; p <0,001), với VC, tỷ lệ diện tích HoHL/diện tích nhĩ trái, tương quan thuận lỏng lẻo với áp lực động mạch phổi, kích thước thất phải, kích thước thất trái, chỉ số tim ngực. Kết luận: Chỉ số Tei, Tei’ thất trái và Tei’ thất phải ở bệnh nhân HoHL tăng so với người không có bệnh tim mạch. Các chỉ số Tei thất phải, thất trái tương quan với nhau và tương quan với nhiều chỉ số siêu âm quan trọng khác.

Tin tức

Ngày xuất bản: 25/10/2025

Giới thiệu Rối loạn nhịp thất (ventricular arrhythmias) là một nhóm rối loạn nhịp phát sinh từ tâm thất của quả tim. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến đột tử do tim (SCD), đặc biệt ở những bệnh nhân mắc bệnh lý tim mạch như bệnh mạch vành, suy tim, hoặc các bệnh lý rối loạn tim bẩm sinh. Việc điều trị và quản lý rối loạn nhịp thất đã có nhiều thay đổi đáng kể trong những năm gần đây, đặc biệt là trong các khuyến cáo của ESC 2022. Những thay đổi này không chỉ nâng cao hiệu quả điều trị mà còn giúp bác sĩ tim mạch có những quyết định chính xác hơn về phân tầng nguy cơ và can thiệp.

Tin tức

Ngày xuất bản: 25/10/2025

I. Giới thiệu Các bệnh lý đa tầng của động mạch  là một dạng tổn thương phức tạp  Các nghiên cứu cho thấy khoảng 10 đến 20% bệnh nhân phình động mạch chủ bụng có các bệnh lý đi kèm ở động mạch chủ ngực như lóc động mạch chủ type B, loét xuyên mảng xơ vữa hoặc phình động mạch chủ ngực.1Can thiệp nội mạch  là phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả cho  bệnh lý động mạch chủ. Tuy nhiên, hiện có ít nghiên cứu về việc thực hiện cùng lúc hai kỹ thuật TEVAR (can thiệp nội mạch động mạch chủ ngực) và EVAR (can thiệp nội mạch động mạch chủ bụng).2Trong báo cáo này, chúng tôi mô tả  một trường hợp bệnh nhân đã được sửa chữa thành công tổn thương động mạch chủ đa tầng phức tạp thông qua can thiệp nội mạch cùng thì. Ủy ban đạo đức của bệnh viện đã phê duyệt quy trình nghiên cứu. Bệnh nhân và gia đình đã đồng ý tham gia nghiên cứu và cho phép sử dụng thông tin cũng như hình ảnh, video trong phẫu thuật cho mục đích khoa học.

Tin tức

Ngày xuất bản: 25/10/2025

I. Định nghĩa: Bệnh lý động mạch chi dưới (PAD) là một biểu hiện của xơ vữa hệ động mạch ngoại biên, trong đó lòng động mạch chi dưới bị hẹp, tắc gây giảm tưới máu cơ quan và các bộ phận liên quan (da, thần kinh) phía hạ lưu.PAD không những gây triệu chứng chi dưới (đau cách hồi, đau khi nghỉ, loét chi, hoại tử chi) mà còn làm tăng nguy cơ biến cố tim mạch lớn (MACE = nhồi máu cơ tim, đột quỵ, tử vong) và biến cố chi (MALE = mất chi, tái can thiệp) so với dân số chung.Do đó, điều trị PAD cần theo đuổi song song hai mục tiêu: (1) bảo vệ tim mạch (giảm MACE) và (2) bảo vệ chi (giảm MALE, cải thiện lưu thông chi dưới, duy trì khả năng vận động, tránh mất chi).

Tin tức

Ngày xuất bản: 25/10/2025

Có an toàn khi mang thai và sinh con nếu tôi bị động kinh? Nghiên cứu MONEAD (Maternal Outcomes and Neurodevelopmental Effects of Antiepileptic Drugs) cho thấy rằng những người mắc bệnh động kinh có thể mang thai an toàn và sinh ra những đứa con khỏe mạnh. Nếu bạn đang cân nhắc việc mang thai, hãy cho bác sỹ điều trị động kinh của mình biết ít nhất một năm trước khi cố gắng thụ thai để giải quyết các vấn đề liên quan đến bệnh động kinh của bạn, bao gồm kiểm soát cơn động kinh và, nếu cần, chuyển sang dùng thuốc chống động kinh ít có khả năng ảnh hưởng đến sự phát triển của bé.

Tin tức

Ngày xuất bản: 25/10/2025

Xơ cứng hồi hải mã là gì? Xơ cứng hồi hải mã  là thuật ngữ dùng để mô tả tình trạng “sẹo” ở hồi hải mã, cấu trúc giải phẫu nằm ở phần sâu của thùy thái dương của não, còn gọi là hồi thái dương giữa. Xơ cứng hồi hải mã là nguyên nhân phổ biến nhất của động kinh có thương tổn. Hồi hải mã liên quan đến việc hình thành và truy xuất ký ức, cũng như hạch hạnh nhân, nơi đóng vai trò quan trọng trong xử lý cảm xúc.

Tin tức

Ngày xuất bản: 25/10/2025

Tổng quanBệnh nhân bị động kinh và đã không lên cơn trong ít nhất hai năm có thể cân nhắc ngừng sử dụng thuốc chống động kinh. Việc ngừng điều trị này nên được xem xét sau khi đánh giá về tác hại và lợi ích, và chỉ nên ngưng thuốc sau khi thảo luận với bác sĩ chuyên khoa thần kinh.Nguy cơ chính liên quan đến việc ngừng thuốc chống động kinh là tái phát cơn động kinh. Động kinh tái phát sau khi ngưng thuốc xảy ra ở 26–63% trường hợp, tùy thuộc vào nhóm bệnh nhân. Nguy cơ tái phát cơn động kinh xảy ra cao nhất trong vòng 6–12 tháng đầu sau khi ngừng thuốc, nhưng vẫn tăng đáng kể trong nhiều năm sau đó.Động kinh tái phát có thể gây ra những hậu quả tàn khốc về thể chất, tâm lý và xã hội. Những điều này có thể bao gồm thương tích, mất sự tự tin vào bản thân, sự kỳ thị của những người xung quanh, thất nghiệp và không được phép lái xe.Một số bệnh nhân sẵn sàng ngừng thuốc chống động kinh ngay cả khi nguy cơ tái phát là đáng kể, trong khi những người khác sợ cơn động kinh quay trở lại và quyết định tiếp tục dùng thuốc chống động kinh. Một nghiên cứu cho thấy hơn một nửa số bệnh nhân muốn tiếp tục dùng thuốc chống động kinh cho dù đã hết động kinh trong hai năm. Họ cảm thấy đã thích nghi tốt với cách điều trị của mình và lo ngại về khả năng cơn động kinh tái phát sau khi ngưng thuốc và hậu quả sau đó là mất giấy phép lái xe hoặc thậm chí là mất việc làm.Đặc điểm của cơn động kinh luôn là 1 yếu tố cần xem xét trước khi đưa ra quyết định ngừng thuốc. Cho dù đã nhiều năm không lên cơn động kinh, nhưng nguy cơ tái phát cơn động kinh là đặc biệt cao đối với bệnh nhân động kinh giật cơ thiếu niên (juvenile myoclonic epilepsy) hoặc động kinh khu trú có nguyên nhân tổn thương ở não bộ (là những bệnh động kinh phổ biến nhất ở người lớn).Người bệnh cần hiểu rõ những vấn đề tiềm ẩn có thể xảy ra sau khi ngừng điều trị, đặc biệt là hậu quả của việc tái phát.Nếu bệnh nhân bị co giật sau khi ngừng điều trị, họ vẫn có cơ hội kiểm soát được cơn động kinh bằng cách tiếp tục dùng thuốc. Tuy nhiên, có tới 20% bệnh nhân không kiểm soát được lập tức và có một số bệnh nhân, có thể phải mất vài năm mới kiểm soát được cơn động kinh trở lại.
Trang
của 321
'