MỚI

Ngày xuất bản: 29/07/2025

Agammaglobulinemia là một rối loạn suy giảm miễn dịch nguyên phát hiếm gặp, đặc trưng bởi sự thiếu hụt tế bào B và các globulin miễn dịch huyết thanh, phổ biến nhất là thể liên kết nhiễm sắc thể X (XLA). Trẻ thường khởi phát nhiễm trùng tái phát nặng từ sau 4–6 tháng tuổi với các biểu hiện như viêm phổi, viêm tai giữa, tiêu chảy kéo dài và viêm màng não do enterovirus. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, xét nghiệm nồng độ IgG/A/M, tế bào B CD19+, và xác định đột biến gen BTK nếu khả thi. Điều trị nền tảng là truyền immunoglobulin (IVIG hoặc SCIG) suốt đời. Các khuyến cáo mới từ AAAAI (2023), ESID (2024), và Bộ Y tế Việt Nam (2020) đã chuẩn hóa liều, mục tiêu IgG đáy, và nhấn mạnh vai trò tư vấn di truyền, theo dõi biến chứng phổi – thần kinh.Bài viết cập nhật các phác đồ điều trị mới và lưu ý thực hành trong bối cảnh Việt Nam, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý bệnh và cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhi.

Tin tức

Ngày xuất bản: 29/07/2025

1. Đặt vấn đề Đái tháo đường (ĐTĐ) ở trẻ em là rối loạn chuyển hóa phức tạp với đặc điểm tăng đường huyết mạn tính do thiếu hụt sản xuất insulin, do giảm tác động insulin hoặc cả hai. Quá trình trên dẫn đến rối loạn chuyển hóa bất thường của tinh bột, chất béo và protid. ĐTĐ ở trẻ em không phổ biến như người lớn, tỷ lệ mắc chiếm vào khoảng 10 - 15% tổng số những người bị ĐTĐ. Nguyên nhân gây ĐTĐ tuýp 1 (ĐTĐ T1) ở trẻ em gồm yếu tố di truyền và quá trình viêm tự miễn phá huỷ cấu trúc tế bào b tuỵ làm giảm sản xuất insulin, gây tăng glucose máu mãn tính, ngoài ra có thể gặp ĐTĐ tuýp (ĐTĐT2) do thiếu insulin đáp ứng làm tăng sức đề kháng insulin thường gặp ở trẻ béo phì, thừa cân. Trong khi ĐTĐ T1 gặp phổ biến nhất bắt đầu ở người tuổi trẻ đặc biệt người có nguồn gốc Châu Âu, còn ĐTĐ T2 hiện đang tăng lên 1 số quốc gia ở lứa tuổi vị thành niên có nguy cơ cao béo phì . ĐTĐ ở trẻ em còn có thể gặp ĐTĐ sơ sinh và trong 1 số hội chứng bệnh cảnh khác cần phải điều trị tiêm insulin. Chúng ta có thể còn gặp ĐTĐ thoáng qua như trong bệnh cảnh stress, nhiễm trùng hoặc do sử dụng thuốc… Điều trị ĐTĐ T1 đòi hỏi sự phối hợp giữa gia đình với nhân viên y tế, trẻ phải tiêm thuốc Insulin hàng ngày từ 2- 4 mũi tiêm từ khi được chẩn đoán đến hết cuộc đời, vì vậy sẽ khó tránh được trẻ bỏ mũi tiêm, hoặc tiêm không đều. Nếu điều trị tiêm Insulin không thường xuyên các mũi trong ngày theo đơn của thầy thuốc các biến chứng vi mạch dễ xảy ra sớm hơn như giảm thị lực, tổn thương thận từ từ dẫn đến mù lòa hoặc suy thận, chạy thận nhân tạo và làm giảm tuổi thọ. Vì vậy khác với ĐTĐ người lớn, ĐTĐ tuýp 1 ở trẻ em không được uống các thuốc làm hạ glucose máu và thuốc đông y mà phải điều trị tiêm Insulin thay thế suốt đời ngay sau khi được chẩn đoán ĐTĐ càng sớm càng tốt.

Tin tức

Ngày xuất bản: 28/07/2025

1. ĐẠI CƯƠNG - Đau bìu cấp tính có thể được gọi là một hội chứng: gồm xoắn tinh hoàn (TH), xoắn mào tinh hoàn (MTH), xoắn phần phụ tinh hoàn (PPTH), viêm mào TH, viêm TH… - XTH là xoắn các cấu trúc của thừng tinh ngăn cản luồng máu đến TH và mào tinh hoàn (MTH) cho TH có thể bị hoại tử - XTH được coi là một tối cấp cứu - Bệnh có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi từ ngay sau khi đẻ cho đến những người cao tuổi - Tỷ lệ mắc: 1/60 nam, 2/3 xuất hiện ở tuổi vị thành niên, hai đỉnh cao là sơ sinh và 14 tuổi - Bệnh được Delasauve mô tả lần đầu tiên năm 1840

Tin tức

Ngày xuất bản: 14/07/2025

Nghiên cứu mới trên tạp chí The New England Journal of Medicine về một chủ đề không mới, nhưng là một khoảng trống trong điều trị nhiễm khuẩn huyết, tác động đến thực hành lâm sàng. Ở bệnh nhân nhập viện bị nhiễm khuẩn huyết, điều trị kháng sinh trong 7 ngày không kém hiệu quả so với điều trị 14 ngày về mặt tỷ lệ tử vong sau 90 ngày, đồng thời có thể giảm thiểu việc sử dụng kháng sinh kéo dài không cần thiết

Tin tức

Ngày xuất bản: 05/07/2025

Tác giả: Nguyễn Thị Nhân – Bác sĩ khoa Chẩn đoán hình ảnh – Bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec Times City. Tóm tắt Cộng hưởng từ (MRI) tai trong là phương tiện hình ảnh học quan trọng trong đánh giá trước phẫu thuật cấy điện cực ốc tai. Kỹ thuật này giúp khảo sát dây thần kinh ốc tai, hình thái mê nhĩ, loại trừ các bất thường thần kinh trung ương, từ đó xác định tính khả thi và hiệu quả của can thiệp. Bài viết trình bày vai trò, chỉ định, kỹ thuật MRI cần thiết, các điểm cần đánh giá, và ca lâm sàng minh họa thực tế.

Tin tức

Ngày xuất bản: 05/07/2025

Nhóm tác giả: Phạm Bá Nha1, Nguyễn Đình Tời1, Lê Thiện Thái1, Đinh Thị Hiền Lê1                      1. Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City Viêm não tự miễn là tình trạng một nhóm các rối loạn đặc trưng bởi các triệu chứng rối loạn chức năng hệ viền và ngoài hệ viền xảy ra liên quan đến các kháng thể chống lại các kháng nguyên nội bào, synap hoặc các protein khu trú trên bề mặt tế bào thần kinh. Bệnh viêm não thụ thể kháng NMDA (thể N-methyl-D-aspartate) được mô tả lần đầu năm 2007 và trở thành một trong những bệnh viêm não tự miễn được công nhận thường xuyên nhất. Bệnh chiếm ưu thế ở phụ nữ (81%) và bệnh nhân trẻ tuổi (37% <18 tuổi, 95% <45 tuổi), trong đó có tới 58% phụ nữ trên 18 tuổi có u quái buồng trứng. Các triệu chứng lâm sàng được ghi nhận gồm rối loạn tâm thần (lo lắng, kích động, hành vi kỳ quái, ảo giác, hoang tưởng và suy giảm trí nhớ); co giật và trạng thái động kinh; các triệu chứng thần kinh khác (loạn trương lực cơ, rối loạn vận động mắt,…) và rối loạn thông khí trung tâm. Việc chẩn đoán tình trạng này có thể gặp khó khăn do các triệu chứng không đặc hiệu, thường dẫn đến chậm trễ trong việc điều trị thích hợp. Chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời bệnh viêm não thụ thể kháng NMDA, đặc biệt ở phụ nữ trẻ có u quái buồng trứng, đã cải thiện đáng kể cơ hội phục hồi sức khỏe hoàn toàn và cải thiện tiên lượng về sức khỏe sinh sản của người bệnh.

Tin tức

Ngày xuất bản: 03/07/2025

Nghiên cứu đăng trên The New England Journal of Medicine cho thấy rằng ở các bệnh nhân có nguy cơ chảy máu và huyết khối cao sau can thiệp mạch vành qua da (PCI), việc điều trị đơn trị với Ticagrelor sau 3 tháng điều trị kháng kết tập tiểu cầu kép có thể giảm nguy cơ chảy máu đáng kể mà không làm tăng nguy cơ các biến cố thiếu máu cục bộ nghiêm trọng

Tin tức

Ngày xuất bản: 03/07/2025

Nghiên cứu mới trên Tạp chí European Heart Journal về thời điểm tiêu thụ cà phê và mối liên hệ với nguy cơ tử vong ở người trưởng thành Hoa Kỳ cho thấy: Uống cà phê vào buổi sáng có thể liên quan đến nguy cơ tử vong thấp hơn so với uống cà phê vào các thời điểm muộn hơn trong ngày.
Trang
của 314
'