Thay khớp gối toàn phần: Phương pháp cắt bỏ dây chằng chéo sau làm tăng nguy cơ phẫu thuật lại
Theo số liệu từ AJRR, phương pháp cắt bỏ dây chằng chéo sau trong thay khớp gối toàn phần đang được áp dụng phổ biến tại Mỹ. Tuy nhiên cần có thêm những nghiên cứu để loại bỏ sai số và xác định nguy cơ tái phẫu thuật của phương pháp này.
Tác giả: Marcia Frellick
Ngày phát hành: 24/3/2022
Chú thích: Marcia Frellick là một nhà báo tự do tại Chicago. Trước đây cô đã viết cho Chicago Tribune, Science News và Nurse.com, đồng thời là biên tập viên của Chicago Sun-Times, Cincinnati Enquirer và St. Cloud (Minnesota) Times.
Theo những dữ liệu mới nhất, phương pháp cắt bỏ dây chằng chéo sau (PS) trong thay khớp gối toàn phần (TKA) có thể tăng nguy cơ phải phẫu thuật lại so sánh với các phương pháp khác.
Tình trạng này đã được báo cáo ở những nghiên cứu ngoài Hoa Kỳ, và hiện nay một phân tích trên hơn 300,000 ca tại Cơ quan đăng kí thay khớp Hoa Kỳ (AJRR) đã cho thấy tình trạng này cũng xảy ra ở Hoa Kỳ.
Bác sĩ Ryland Kagan
Người nghiên cứu chính Rylan Kagan – Phó Giáo sư, Bác sĩ y khoa – tại khoa Chấn thương chỉnh hình thuộc Đại học Y và Khoa học Oregon (OHSU) tại Phần Lan, đã có cuộc trò chuyện với Medscape Medical News, “Điều đặc biệt trong trải nghiệm của chúng tôi tại Mỹ là mức độ sử dụng phương pháp PS ở đây.”
Ông cho biết, hơn một nửa những ca thay khớp gối toàn phần ở Mỹ sử dụng phương pháp cắt bỏ dây chằng chéo sau (PS); trong khi đó ở Úc và các nước châu Âu, tỷ lệ sử dụng PS là gần 20%. Bởi vì có sự chênh lệch này, những nghiên cứu trước đây đều không thể tổng quan hóa với Hoa Kỳ.
Các nhà nghiên cứu sử dụng dữ liệu của AJRR từ năm 2012 đến 2019 và xác định tất cả những ca thay khớp gối toàn phần nguyên phát được thực hiện trong khoảng thời gian này. Những trường hợp này đã được bổ sung thêm vào dữ liệu của Centers for Medicare & Medicaid Services để tìm kiếm những trường hợp thực hiện phẫu thuật lại mà không được thêm vào dữ liệu của AJRR.
Jamil Kendall, MD, bác sĩ nội trú Chấn thương chỉnh hình tại OHSU, tác giả chính của nghiên cứu. Nhóm nghiên cứu đã đánh giá các đặc điểm nhân khẩu học của bệnh nhân, những đặc tính của polyethylene, ngày thực hiên phẫu thuật, và nguyên nhân phẫu thuật lại trên 305,279 trường hợp.
Trong những tường hợp ghi nhận về đặc điểm của phương pháp phẫu thuật, 161,486 (52.9%) bệnh nhân được dùng phương pháp PS, và 143,793 (47.1%) bệnh nhân được dùng các phương pháp trục ổn định tối thiểu.
Các nhà nghiên cứu so sánh 3 phương pháp trục ổn định tối thiểu ( phương pháp bảo tồn dây chằng chéo sau (CR), phương pháp sử dụng trục ổn định trước (AS), phương pháp sử dụng trục xoay) với nhau và sau đó gộp chúng lại thành phương pháp ổn định tối thiểu và so sánh với phương pháp PS.
Họ nhận thấy rằng không có sự khác biệt rõ ràng nào giữa 3 phương pháp trục ổn định tối thiểu.
Nhưng nguy cơ tái phẫu thuật cao hơn khi so sánh phương pháp sử dụng trục ổn định tối thiểu với phương pháp PS. Phương pháp PS có tỷ suất nguy cơ (HR) là 1.25 (95% CI, 1.2 – 1.3; P < 0,001) đối với tái phẫu thuật do tất cả nguyên nhân và HR bằng 1.18 (95% CI, 1.0 – 1.4; P = .02) đối với nhiễm trùng.
Đối với những bệnh nhân được dùng phương pháp trục ổn định tối thiểu, 1693 (1.2%) phải phẫu thuật lại do nhiễm trùng. Với những bệnh nhân dùng phương pháp PS, 2406 (1.5%) bệnh nhân phải phẫu thuật lại do các nguyên nhân khác nhau, và 446 (0.3%) bệnh nhân phẫu thuật lại do nhiễm trùng.
Ngay cả một sự khác biệt nhỏ cũng đáng kể. Kagan nói, “Sự khác nhau là không rõ rệt, nhưng khi nghĩ về tổng số những ca thay khớp gối đã được thực hiện, thì bạn đang nói đến hàng triệu ca. Chỉ cần một nguy cơ tăng nhẹ cũng có thể có ảnh hưởng lớn cho một quần thể.”
Richard Lynn Illgen, MD, Giám đốc Chương trình Thay khớp của Đại học Wisconsin-Madison, nói với Medscape Medical News rằng công trình này đã xác định một xu hướng, nhưng ông chỉ ra rằng các nghiên cứu dựa trên đăng ký có những hạn chế quan trọng.
Ông nói, “Chúng không thể thiết lập quan hệ nhân quả.” “Có nhiều biến số gây nhiễu tiềm tàng và những sai số chọn tiềm ẩn có thể ảnh hưởng đến nghiên cứu này. Cụ thể, nghiên cứu không tính đến mức độ tổn thương hoặc các bệnh kèm theo. Mặc dù một số bác sĩ phẫu thuật thường sử dụng phương pháp PS cho tất cả những ca thay khớp háng lần đầu, một số khác sử dụng phương pháp này cho những bệnh nhân với mức độ tổn thương nghiêm trọng hơn. Có thể do phương pháp PS đã được sử dụng thường xuyên hơn ở những bệnh nhân có mức độ tổn thương nặng hơn, từ đó có thể dẫn đến sai số lựa chọn.”
Ông bổ sung thêm rằng không có dữ liệu nào được thêm vào để phân loại bệnh nhân dựa trên các bệnh kèm theo.
Ông cho biết cần có các nghiên cứu ngẫu nhiên, tiềm năng hơn nữa để loại bỏ sai số lựa chọn và để xác định rõ hơn liệu những đặc điểm đã biết về việc tăng nguy cơ tái phẫu thuật có đúng với các phương pháp ổn định tối thiểu.
Các tác giả cũng thừa nhận những hạn chế đó, nhưng Kagan nói rằng việc tỷ lệ sử dụng phương pháp PS cao ở Mỹ sẽ giúp giảm thiểu những sai số tiềm tàng.
llgen là chuyên gia Tư vấn và Phát triển cho Stryker, là Chủ tịch Tiểu ban các dự án nghiên cứu AAOS AJRR và là thành viên của Ban chỉ đạo AJRR. Kagan nhận được hỗ trợ nghiên cứu từ KCI, Ortho Development Corporation và Smith & Nephew, nơi ông cũng là một nhà tư vấn được trả lương. Kendall báo cáo không có mối quan hệ tài chính liên quan. Một đồng tác giả khác của nghiên cứu là một nhà tư vấn được trả tiền cho 3M, Heraeus, Immunis, Smith & Nephew, Zimmer Biomet, và Total Joint Orthopedics và có cổ phiếu hoặc quyền chọn cổ phiếu trong Joint Development, LLC.
Marcia Frellick là một nhà báo tự do tại Chicago. Trước đây cô đã viết cho Chicago Tribune, Science News và Nurse.com, đồng thời là biên tập viên của Chicago Sun-Times, Cincinnati Enquirer và St. Cloud (Minnesota) Times.
Để biết thêm tin tức, hãy theo dõi Medscape trên Facebook, Twitter, Instagram, và YouTube.
Bản quyền và thương hiệu: Thông tin và hình ảnh trên website thuộc quyền sở hữu của Vinmec. Việc sao chép, sử dụng phải được Vinmec chấp thuận trước bằng văn bản.
Miễn trừ trách nhiệm: Tất cả những tư liệu được cung cấp trên website này đều mang tính tham khảo. Do đó, nội dung và hình ảnh sẽ được thay đổi, cập nhật và cải tiến thường xuyên mà không phải thông báo trước. Vinmec không bảo đảm về độ chính xác cũng như sự hoàn thiện về thông tin. Chúng tôi không chịu trách nhiệm pháp lý cho những thiệt hại xuất hiện trực tiếp hay gián tiếp từ việc sử dụng hoặc hành động dựa theo những thông tin trên hoặc một số thông tin xuất hiện trên website này. Vinmec không chịu trách nhiệm pháp lý về những sai sót, lỗi chính tả… do nhập liệu cùng với những sự cố khách quan khác như: nhiễm virus, hành vi phá hoại, ác ý… xảy ra trên website này cũng như các website liên kết, nếu có.
Đường link liên kết
Vinmec sẽ không chịu trách nhiệm hay có nghĩa vụ pháp lý dưới bất kỳ hình thức nào về nội dung của những website không thuộc Vinmec được liên kết với website www.vinmec.com, bao gồm các sản phẩm, dịch vụ và những mặt hàng khác được giới thiệu thông qua những website đó.