Một nghiên cứu ngẫu nhiên giai đoạn II so sánh giữa hóa trị chu phẫu với Bevacizumab với hóa trị hậu phẫu với Bevacizumab ở bệnh nhân có ung thư trực tràng di căn gan có thể cắt bỏ được hóa trị cảm ứng trước phẫu thuật.
Đã được đăng tải trên tạp chí: Clinical Colorectal Cancer, tập 19, số 3.
Ngày đăng tải: tháng 9 năm 2020
Nhóm tác giả: You Jin Chun 1, Seong-Geun Kim 2, Keun-Wook Lee 3, Sang Hee Cho 4, Tae Won Kim 5, Ji Yeon Baek 6, Young Suk Park 7, Soojung Hong 8, Chong Woo Chu 9, Seung-Hoon Beom 1, Minkyu Jung 1, Sang Joon Shin 1, Joong Bae Ahn 10
Đơn vị công tác
- Đơn vị Điều trị Ung bướu, Khoa Nội, Trung tâm Ung bướu Yonsei, Đại học Y khoa Đại học Yonsei, Seoul, Hàn Quốc.
- Đơn vị Huyết học – Ung bướu, Bệnh viện On, Trung tâm Ung bướu, Busan, Hàn Quốc.
- Khoa Nội, Đại học Y khoa Đại học Quốc gia Seoul, Bệnh viện Đại học Quốc gia Seoul Bundang, Seongnam, Hàn Quốc.
- Khoa Huyết học-Ung bướu, Bệnh viện Hwasun Đại học Quốc gia Chonnam, Hwasun, Hàn Quốc.
- Khoa Ung bướu, Trung tâm Y tế Asan, Đại học Y khoa Ulsan, Seoul, Hàn Quốc.
- Trung tâm Ung bướu Đại trực tràng, Viện Nghiên cứu và Bệnh viện, Trung tâm Ung bướu Quốc gia, Goyang, Hàn Quốc.
- Đơn vị Huyết học-Ung bướu, Khoa Y, Trung tâm Y tế Samsung, Trường Y Đại học Sungkyunkwan, Seoul, Hàn Quốc.
- Đơn vị Ung bướu-Huyết học, Khoa Nội, Bệnh viện Dịch vụ Bảo hiểm Y tế Quốc gia Ilsan, Goyang, Hàn Quốc.
- Đơn vị Phẫu thuật Gan mật, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, Hà Nội, Việt Nam.
- Đơn vị Điều trị Ung bướu, Khoa Nội, Trung tâm Ung bướu Yonsei, Đại học Y khoa Đại học Yonsei, Seoul, Hàn Quốc. Địa chỉ điện tử: vvswm513@yuhs.ac.
Tóm tắt
Giới thiệu: Liệu rằng bệnh nhân mắc ung thư trực tràng di căn gan (CRLM) có thể cắt bỏ nhận được lợi ích sống từ hóa trị chu phẫu hay không vẫn còn tranh cãi. Lợi ích của việc sử dụng bevacizumab trong hóa trị cũng vẫn chưa rõ ràng.
Phương pháp nghiên cứu: 76 bệnh nhân mắc CRLM được chỉ định ngẫu nhiên điều trị 6 chu kỳ theo phác đồ FOLFOX (axit folinic, 5-fluorouracil và oxaliplatin)/FOLFIRI (axit folinic, 5-fluorouracil và irinotecan) với bevacizumab trước và sau phẫu thuật hoặc 12 chu kỳ sau phẫu thuật. Thời gian sống thêm không có bệnh tiến triển (PFS) được ước tính bằng phương pháp Kaplan-Meier và được so sánh bằng kiểm định log-rank.
Kết quả: PFS trung bình của tất cả bệnh nhân là 37.4 tháng sau 5.4 năm theo dõi và không đạt được thời gian sống thêm toàn bộ (OS). PFS giữa nhóm chu phẫu và nhóm hậu phẫu không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P = .280). OS tốt hơn đáng kể ở nhóm chu phẫu (tỷ suất nguy cơ [HR], 0.60; khoảng tin cậy 95% [CI],) 0.35-1.02; P = .049). Ở phân nhóm bệnh nhân có kháng nguyên ung thư biểu mô phôi (CEA) ≥ 5 ng/mL hoặc những bệnh nhân có hơn 2 khối di căn gan, nhóm chu phẫu có thời gian điều trị lâu hơn nhóm hậu phẫu (CEA: HR, 0.49; 95% CI, 0.25-0.93; P = .030; số lượng di căn gan: HR, 0.55; 95% CI, 0.30-0.99; P = .049). Kích thước khối di căn gan lớn nhất, khoảng thời gian sống thêm không bệnh và phía thùy gan tổn thương không ảnh hưởng đến PFS hoặc OS. Không có sự khác biệt giữa 2 nhóm về các biến chứng hậu phẫu với bevacizumab hoặc các tác dụng phụ trong quá trình hóa trị.
Kết luận: Ở những bệnh nhân có CRLM có thể cắt bỏ, hóa trị chu phẫu không ảnh hưởng đến PFS, nhưng cải thiện OS. Bệnh nhân có mức CEA cao hoặc có trên 2 khối di căn gan có thể được hưởng lợi từ hóa trị chu phẫu.
- PMID: 32402681
- DOI: 10.1016/j.clcc.2020.03.004
Từ khóa: Bevacizumab; cắt gan; ung thư đại trực tràng di căn; hóa trị chu phẫu; có thể cắt bỏ
Để đọc chi tiết nghiên cứu này, vui lòng truy cập tại đây.
Được trích dẫn: 0 bài báo.