Bệnh Celiac và các xét nghiệm chẩn đoán
1. Tóm tắt
Celiac là bệnh tự miễn do đáp ứng miễn dịch bất thường với gluten (có trong lúa mì, lúa mạch, lúa mạch đen; yến mạch). Bệnh gây tổn thương nhung mao ruột non dẫn đến kém hấp thu và biểu hiện ngoài tiêu hóa đa dạng. Chẩn đoán dựa trên huyết thanh học đặc hiệu, nội soi–sinh thiết tá tràng và xét nghiệm HLA‑DQ2/DQ8 trong các tình huống chọn lọc. Điều trị duy nhất hiện nay là chế độ ăn không gluten trọn đời (GFD), theo dõi đáp ứng lâm sàng, dinh dưỡng và huyết thanh học.
2. Mở đầu
Bệnh Celiac đang nổi lên như vấn đề sức khỏe cộng đồng: ước tính ~1% dân số toàn cầu mắc nhưng tại Việt Nam chưa có số liệu cụ thể. Trong bối cảnh khẩu phần “phương Tây hóa” và gluten phổ biến, bệnh không chỉ gây rối loạn tiêu hóa mạn tính mà còn dẫn tới thiếu sắt, loãng xương, vô sinh, tăng men gan… Tin tích cực là chẩn đoán thuận tiện hơn nhờ xét nghiệm huyết thanh học đặc hiệu và quy trình nội soi–sinh thiết chuẩn hóa, cho phép can thiệp sớm bằng chế độ ăn không gluten.
3. Nội dung chính
3.1. Cơ chế gây bệnh:
Gluten trong lòng ruột được phân cắt nhỏ nhất thành gliadin peptid gồm 33 acid amin do đó thông thường không thể hấp thu qua thành ruột.
Trong bệnh Celiac, các gliadin peptide có thể đi qua biểu mô ruột qua đường gian bào (1). Vận chuyển gian bào xảy ra do hậu quả của tính thấm ruột tăng lên với sự tiết zonulin tăng lên (2). Các peptide gliadin khử amin được xúc tác bởi transglutaminase mô (3) kích hoạt phản ứng miễn dịch thích ứng thông qua hoạt hóa tế bào T CD4+ (4), từ đó kích thích tế bào T gây độc tế bào và nguyên bào sợi sản xuất một kiểu mẫu matrixmetalloproteinase đặc hiệu chịu trách nhiệm phân hủy cả chất nền ngoại bào và màng đáy (5). Các tế bào T được hoạt hóa kích hoạt quá trình apoptosis của tế bào trung tâm bằng cách sản xuất các phân tử như phối tử Fas và granzyme (6). Phản ứng tự miễn dịch cũng có thể được kích hoạt bởi các tế bào T CD4+ được hoạt hóa bằng cách gây ra sự biệt hóa tế bào lympho B thành tế bào plasma sản xuất kháng thể antigladin và kháng thể transglutaminase mô đặc hiệu (anti-TG Ab) (7). Tiêu thụ gluten kéo dài sẽ dẫn tới viêm teo tế bào niêm mạc ruột non gây nên tình trạng kém hấp thu. Ngoài ra còn gây tổn thương các cơ quan khác trong cơ thể do phản ứng tự miễn.
Hình 1: Cơ chế gây bệnh Celiac [2]
3.2. Triệu chứng:
Đặc điểm triệu chứng ở bệnh Celiac khác nhau ở lứa tuổi trả em so với người lớn. Trẻ em thường gặp nhất là triệu chứng về tiêu hóa bao gồm : tiêu chảy, táo bón, đau bụng, buồn nôn, nôn, đầy hơi, chướng bụng, mệt mỏi, sụt cân… và các triệu chứng toàn thân cho hậu quả của tình trạng kém hấp thu như: chậm phát triển, sụt cân, thấp còi, dậy thì muộn, tổn thương men răng, thiếu máu, các triệu chứng thần kinh, bao gồm rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), khó khăn trong học tập, đau đầu, thiếu phối hợp cơ và co giật…. Ngược lại, hơn một nửa số người lớn có các triệu chứng không liên quan đến hệ tiêu hóa bao gồm: thiếu máu (thường do thiếu sắt), loãng xương, hoặc nhuyễn xương, đau khớp, viêm da dạng herpes, loét miệng, đau đầu, men gan tăng tổn thương hệ thần kinh (tê và ngứa ran ở bàn chân, bàn tay, các vấn đề về thăng bằng và suy giảm nhận thức), vô sinh… [3] [4].
3.3. Nguyên nhân:
Nghiên cứu cho thấy bệnh celiac chỉ xảy ra ở những người mang gen liên quan đến HLA-DQ2/HLA-DQ8 và ăn thực phẩm có chứa gluten. Nếu có tiền sử gia đình, nguy cơ mắc bệnh là 10%, đối với anh em sinh đôi thì tỉ lệ này là 75%. Tuy nhiên, không phải tất cả những người mang biến thể gen DQ2 hoặc DQ8 và ăn gluten đều mắc bệnh. Các tình trạng sức khỏe khác có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh celiac, bao gồm: đái tháo đường tuýp 1, bệnh tuyến giáp, hội chứng Down, hội chứng Turner. Các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu một số yếu tố khác làm tăng nguy cơ mắc bệnh như mắc nhiều lần nhiễm trùng tiêu hóa những năm đầu đời, một số bệnh nhiễm trùng đường tiêu hóa như tả…
3.4. Chẩn đoán:
Trên thế giới có nhiều hiệp hội tổ chức liên tục cập nhật hướng dẫn chẩn đoán bệnh celiac. Dưới dây là hướng dẫn chẩn đoán theo hiệp hội tiêu hóa của Mỹ năm 2023:
Hình 2: Hướng dẫn chẩn đoán bệnh celiac [5]
Chú thích:
CD: bệnh celiac
CVID: suy giảm miễn dịch biến đổi phổ biến
DGP: peptide gliadin khử amid
EMA: kháng thể nội mạc cơ
HLA: kháng nguyên bạch cầu người;
IgA: immunoglobulin A
IgG: immunoglobulin G
TTGA: kháng thể transglutaminase mô
(1) Tiêu chuẩn không sinh thiết ở trẻ em yêu cầu IgA TTG nồng độ cao (>10 lần giới hạn trên của mức bình thường) với EMA dương tính trong mẫu máu thứ hai ở trẻ em chỉ khi gia đình đồng ý với chiến lược không sinh thiết.
(2) Khuyến cáo lấy mẫu tá tràng: 1 hoặc 2 sinh thiết từ hành tá tràng và 4 sinh thiết từ tá tràng xa.
3.5. Các xét nghiệm liên quan:
Có 3 nhóm xét nghiệm được sử dụng trong chẩn đoán bệnh Celiac là: Xét nghiệm huyết thanh học, Sinh thiết ruột non và Xét nghiệm gen.
Xét nghiệm huyết thanh học:
Xét nghiệm huyết thanh học ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận biết bệnh nhân mắc celiac, làm giảm số lượng phải thực hiện thủ thuật xâm lấn sinh thiết ruột non. Các xét nghiệm được ưu tiên bao gồm: IgA TTG và IgA total; khi IgA TTG âm tính hoặc thiếu hụt IgA cần bổ sung xét nghiệm IgG TTG, IgG DGP; trường hợp gia đình không đồng ý sinh thiết cần làm bổ sung xét nghiệm anti-EMA. Hiệu năng của các xét nghiệm dao động tùy nghiên cứu và phương pháp xét nghiệm, độ nhạy từ 63% đến 93% và độ đặc hiệu từ 96% đến 100%. Lưu ý yêu cầu bệnh nhân áp dụng chế độ ăn có gluten để tránh âm tính giả.
Sinh thiết ruột non:
Do không xét nghiệm huyết thanh nào đáp ứng hiệu năng 100% do đó sinh thiết vẫn được coi là tiêu chuẩn vàng, thực hiện khi có bất thường về xét nghiệm huyết thanh học giúp chẩn đoán phân biệt rối loạn hấp thu hoặc các bệnh lý ruột khác. Chẩn đoán bệnh Celiac cổ điển dựa theo phân loại Marsh tuy nhiên gần đây phân loại Corazza được xem xét sử dụng do đơn giản hơn.
Xét nghiệm gen: HLA DQ2/DQ8
Xét nghiệm này không bắt buộc để chẩn đoán nhưng có thể hữu ích trong một số trường hợp nhất định. Chẳng hạn như trong bối cảnh có sự khác biệt về huyết thanh học-mô học, nếu xét nghiệm gen âm tính có thể loại trừ bệnh celiac hoặc áp dụng cho những người đã bắt đầu chế độ ăn không có gluten trước khi đánh giá, nếu có haplotype tương thích có thể đề nghị thử nghiệm gluten để tiếp tục đánh giá [4], [5].
4. Kết luận:
Bệnh Celiac là bệnh tự miễn hệ thống do gluten hiện chưa có thuốc điều trị dứt điểm. Chế độ ăn không gluten là phương pháp điều trị duy nhất và hiệu quả. Xét nghiệm huyết thanh học giúp chẩn đoán sớm, có thể thay thế sinh thiết trong một số trường hợp.
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times city có đầy đủ đội ngũ nhân sự và hệ thống xét nghiệm tiêu chuẩn Mỹ (CAP) giúp chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời bệnh lý này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Celiac disease. National Library of Medicine, MedlinePlus. Reviewed April 2019. Accessed November 5, 2020.
- Jitendra Kumar, Manoj Kumar, Rajesh Pandey, and Nar Singh Chauhan. Physiopathology and Management of Gluten-Induced Celiac Disease. Jounal of food science, 2017.
- Andrén Aronsson C, Lee HS, Hård Af Segerstad EM, et al. Association of gluten intake during the first 5 years of life with incidence of celiac disease autoimmunity and celiac disease among children at increased riskNIH external link. JAMA. 2019;322(6):514–523.
- Alberto Raiteri1, Alessandro Granito 2, Alice Giamperoli 3, Teresa Catenaro 4, Giulia Negrini 5, Francesco Tovoli 6 . Current guidelines for the management of celiac disease: A systematic review with comparative analysis. World J Gastroenterol, 2022.
- Rubio-Tapia, Alberto MD1; Hill, Ivor D. MD2, , et al. American College of Gastroenterology Guidelines Update: Diagnosis and Management of Celiac Disease. The American Journal of Gastroenterology, 2023.
Tác giả: ThS.BS. Lê Thị Yến – chuyên khoa Hóa sinh, khoa Xét nghiệm, Bệnh viện Vinmec Times City