Can thiệp nội mạch cùng thì điều trị bệnh lý đa tầng động mạch chủ phức tạp: Báo cáo ca lâm sàng
I. Giới thiệu
Các bệnh lý đa tầng của động mạch là một dạng tổn thương phức tạp Các nghiên cứu cho thấy khoảng 10 đến 20% bệnh nhân phình động mạch chủ bụng có các bệnh lý đi kèm ở động mạch chủ ngực như lóc động mạch chủ type B, loét xuyên mảng xơ vữa hoặc phình động mạch chủ ngực.1
Can thiệp nội mạch là phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả cho bệnh lý động mạch chủ. Tuy nhiên, hiện có ít nghiên cứu về việc thực hiện cùng lúc hai kỹ thuật TEVAR (can thiệp nội mạch động mạch chủ ngực) và EVAR (can thiệp nội mạch động mạch chủ bụng).2
Trong báo cáo này, chúng tôi mô tả một trường hợp bệnh nhân đã được sửa chữa thành công tổn thương động mạch chủ đa tầng phức tạp thông qua can thiệp nội mạch cùng thì. Ủy ban đạo đức của bệnh viện đã phê duyệt quy trình nghiên cứu. Bệnh nhân và gia đình đã đồng ý tham gia nghiên cứu và cho phép sử dụng thông tin cũng như hình ảnh, video trong phẫu thuật cho mục đích khoa học.
II. Giới thiệu ca lâm sàng
Nội dung bài viết
Bệnh nhân nam, tuổi 89, vào viện vì đau ngực trái.
Tiền sử: Bệnh động mạch chủ ngực, bụng đã phát hiện 1 năm trước, theo dõi và điều trị nội khoa.
Bệnh sử: Cách ngày vào viện 3 ngày, người bệnh có nhiều cơn đau ngực ngắn, kèm theo khó thở, ho từng cơn. Cùng ngày vào viện, triệu chứng đau ngực tăng lên, tự đo huyết áp tại nhà là 160/100mmHg
Tình trạng lúc nhập viện: Người bệnh tỉnh, tiếp xúc hạn chế, da niêm mạc nhợt, huyết áp 90/50 mmHg, đau ngực trái nhiều, tim nhịp đều, tần số 90 lần/phút. Nghe không thấy tiếng tim bất thường, mạch ngoại vi bắt rõ.
Chụp cắt lớp vi tính cho thấy hình ảnh tổn thương động mạch chủ ngực: Hình ảnh tụ máu trong thành động mạch chủ ngực, có điểm chảy máu hoạt động vào trong thành mạch và tràn máu khoang màng phổi trái như mô tả/ Thành mạch không đều có các ổ loét xuyên mảng xơ vữa. Phình đoạn cuối động mạch chủ bụng (dưới động mạch thận) đến đoạn đầu động mạch chậu chung hai bên, có huyết khối bám thành; kích thước đường kính khối phồng lớn nhất 68mm. Tràn dịch màng phổi trái 15mm.
Hình 1. Phim chụp cắt lớp vi tính động mạch chủ
Người bệnh được chẩn đoán: Hội chứng động mạch chủ cấp/ Vỡ động mạch chủ ngực ở động mạch chủ ngực loét xuyên thành- phồng lớn động mạch chủ bụng dưới thận/ Tăng huyết áp, sa sút trí tuệ, suy tim, suy thận, nhồi máu não cũ.
Được chỉ định can thiệp động mạch chủ cấp cứu
Can thiệp nội mạch được tiếp cận theo các đường động mạch quay trái, động mạch đùi phải và động mạch đùi trái. Chụp động mạch chủ ngực đánh giá tổn thương bằng sonde pigtall: , có ổ chảy máu số lượng ít đang hoạt động tạo hình ảnh thoát thuốc cản quang ra ngoài vào khoang màng phổi trái. Đã đặt 2 stent Graft phủ qua vị trí ổ loét xuyên thành động mạch chủ. Sau đặt chụp lại kiểm tra: Không còn thấy thoát thuốc cản quang ra khoang màng phổi trái, dòng chảy động mạch chủ tốt. Đối với tổn thương động mạch chủ bụng: đặt 1 stent Graft vào đúng vị trí dự kiến, đặt phủ qua tổn thương phình lớn động mạch chủ bụng. Đặt tiếp 2 stent Limb ở vị trí động mạch chủ đoạn dưới và 2 bên động mạch chậu chung.
Chụp lại kiểm tra: dòng chảy qua động mạch chủ và động mạch chậu 2 bên tốt, không có thoát thuốc ngoài lòng mạch, các mạch tạng dòng chảy tốt.

Hình 2. Hình ảnh chụp DSA trong phòng cathlab sau can thiệp
Trong quá trình can thiệp, người bệnh được gây mê nội khí quản, huyết áp tâm thu duy trì ở mức 110mmHg-125mmHg.
Sau can thiệp, người bệnh được rút ống nội khí quản ngay trong phòng can thiệp. Về khu vực hồi sức tích cực theo dõi và điều trị tiếp. Tình trạng đau ngực cải thiện ngay sau can thiệp. . Người bệnh ổn định, ra viện sau 10 ngày.
Hình 3. Hình ảnh chụp phim cắt lớp vi tính sau can thiệp 30 ngày cho thấy kết quả tốt
III. Bàn luận
Các bệnh lý động mạch chủ thường tiến triển mãn tính, nhưng các triệu chứng có thể xuất hiện đột ngột, gây ra hậu quả nghiêm trọng. Các tổn thương nhiều cấp của động mạch chủ có thể xuất hiện trong các tình huống thường gặp như thoái hóa, xơ vữa động mạch, rối loạn di truyền và tình trạng viêm. Tỷ lệ mắc bệnh lý động mạch chủ đa tầng ước tính vào khoảng 10–20% bệnh nhân, trong đó kết hợp phổ biến nhất là phình động mạch chủ bụng và phình động mạch chủ ngực3,4. . Trong trường hợp của chúng tôi, tổn thương động mạch chủ đa tầng đã biết trước, việc tiến triển của loét xuyên thành động mạch chủ ngực đã dẫn tới bệnh cảnh lâm sàng khi nhập viện của hội chứng động mạch chủ cấp (vỡ động mạch chủ ngực) trên nền bệnh nhân có phồng động mạch chủ bụng dưới thận kích thước lớn.
Việc điều trị, phẫu thuật mở đồng thời là một loại phẫu thuật đầy thách thức và có nguy cơ mắc bệnh và tử vong đáng kể, đặc biệt là ở những bệnh nhân mắc bệnh tim phổi nặng. Những tiến bộ nhanh chóng trong công nghệ nội mạch và những đột phá về phẫu thuật đã góp phần làm thay đổi đáng kể toàn bộ lĩnh vực phẫu thuật động mạch chủ ngực và bụng sau báo cáo đầu tiên về can thiệp đặt ống ghép nội mạch sửa chữa phình động mạch chủ.6 TEVAR và EVAR là phương pháp thay thế ít xâm lấn cho phẫu thuật mở kinh điển nhờ tỷ lệ tử vong và biến chứng thấp hơn, thời gian nằm viện ngắn hơn.7,8 Các nghiên cứu báo cáo rằng TEAVR và EVAR kết hợp có thể được thực hiện thành công với ít biến chứng, tỷ lệ sống sót chấp nhận được (75–100%) và tỷ lệ can thiệp lại (0–25%) trong quá trình theo dõi.5 Do đó, kết luận rằng sửa chữa nội mạch đồng thời có thể được coi là một giải pháp thay thế khả thi cho sửa chữa theo từng giai đoạn hoặc kết hợp nếu khả thi về mặt giải phẫu. Bệnh nhân lớn tuổi mắc các bệnh tim phổi đồng thời sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ phương pháp sửa chữa ít xâm lấn nhưng hoàn toàn này trong một giai đoạn.5
Các kỹ thuật nội mạch đồng thời có vẻ phức tạp và đầy thách thức hơn, nhưng khả thi về mặt kỹ thuật và kết quả ngắn hạn và trung hạn rất khả quan. Mặc dù kết quả ban đầu là khả quan, nhưng độ bền và hiệu quả lâu dài của việc sửa chữa đồng thời cho của bệnh lý đa tầng động mạch chủ cần được tiến hành nghiên cứu và đánh giá dài hạn hơn.
IV. Kết luận
Kết hợp TEVAR và EVAR có thể được thực hiện thành công với tỷ lệ mắc bệnh và tử vong tối thiểu. Khi khả thi về mặt giải phẫu, TEVAR và EVAR đồng thời có thể được coi là một phương án thay thế chấp nhận được cho các bệnh động mạch chủ đa tầng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Yuanyuan Guo. Simultaneous Endovascular Repair for Thoracic and Abdominal Aortic Pathologies: Early and Midterm Results. Ann Vasc Surg 2016; -: 1–5
- Weichang Zhanget al. Simultaneous Endovascular Repair Is Not Associated with Increased Risk for Thoracic and Abdominal Aortic Pathologies: Early and Midterm Outcomes. Cardiovasc 2022. Med. 9:883708
- Gloviczki P, et al. Multiple aortic aneurysms: The results of surgical management. J Vasc Surg 1990; 11: 19–27; discussion 27–28.
- Erbel R, et al. 2014 ESC Guidelines on the diagnosis and treatment of aortic diseases: Document covering acute and chronic aortic diseases of the thoracic and abdominal aorta of the adult. (ESC). Eur Heart J 2014; 35: 2873–2926.
- Qinglong Zeng, . Single-center experience with simultaneous thoracic endovascular aortic repair and abdominal endovascular aneurysm repair. Vascular 0(0) 1–6
- Dake MD, et al. Transluminal placement of endovascular stent-grafts for the treatment of descending thoracic aortic aneurysms. N Engl J Med 1994; 331: 1729–1734.
- Schermerhorn ML, et al. Long- term outcomes of abdominal aortic aneurysm in the med- icare population. N Engl J Med 2015; 373: 328–338.
- Cheng D, et al. Endovascular aortic repair versus open surgical repair for descending thoracic aortic disease a systematic review and meta-analysis of comparative studies. J Am Coll Cardiol 2010; 55: 986–1001.
Tác giả: Đoàn Đức Dũng*, Đỗ Viết Thắng*
*Trung tâm Tim mạch – BV Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City

