MỚI
load

Nghiên cứu tỷ lệ và một số đặc điểm của thai phụ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B có tuổi thai từ 36 tuần

Ngày xuất bản: 24/10/2025

Tóm tắt

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thai kỳ mang liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) và một số đặc điểm của thai phụ có tuổi thai từ 36 tuần

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 302 thai phụ quản lý thai kỳ tại bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang từ 02/2020 đến 02/2021. Chẩn đoán thai kỳ mang GBS dựa vào nuôi cấy, phân lập và định danh vi khuẩn bằng mẫu dịch âm đạo ở thời điểm trên 36 tuần. Đánh giá một số đặc điểm về tiền sử sản khoa và triệu chứng lâm sàng của thai phụ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B.

Kết quả: Tỷ lệ thai phụ mang GBS dựa trên nuôi cấy, phân lập và định danh mẫu dịch âm đạo – trực tràng thai phụ từ 36 tuần là 7,6% (KTC 95%: 4,6 – 10,9%). 91,3% thai phụ có tiền sử không sẩy thai. Thai phụ nhiễm GBS có tiền sử chưa sinh con chiếm tỷ lệ 69,6%. Đa số các trường hợp mang thai nhiễm GBS đều không có triệu chứng, với tỷ lệ là 93,1%. Các thai phụ mang GBS có tỷ lệ rỉ ối, vỡ ối chiếm 26,1%. 100% GBS nhạy cảm với các kháng sinh Ampicillin, Cefriaxone, Cefotaxime, Vancomycin. Chỉ có 26,1% nhạy cảm với Clindamycin.

Kết luận: Tỷ lệ thai kỳ mang GBS trong thai kỳ ở mức trung bình. Thai phụ mang GBS phần lớn không có tiền sử sẩy thai và không biểu hiện triệu chứng. GBS hiện vẫn còn nhạy cảm với nhiều loại kháng sinh.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Liên cầu khuẩn nhóm B (GBS, Group B Streptococci hay Streptococcus agalactiae) là một trong ba loại liên cầu phổ biến nhất (bên cạnh liên cầu khuẩn nhóm A và phế cầu), sống hội sinh và gây bệnh ở người [1]. Đây là vi khuẩn gram dương hiện diện ở đường tiêu hóa, đường tiết niệu và đường sinh dục của người phụ nữ [2].

Tỷ lệ nhiễm GBS trong thai kỳ là 10 – 30%. Có nhiều yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm GBS trong thai kỳ. Một nghiên cứu tại Hàn Quốc cho thấy các yếu tố đó bao gồm: chỉ số khối cơ thể trước khi mang thai (OR = 3,79, KTC 95%: 1,28 – 11,26), tuổi thai (OR = 5,81, KTC 95%: 1,20 – 28,15), sẩy thai (OR = 0,63, KTC 95%: 0,40 – 0,98) [3]. Nhiễm GBS trong thai kỳ có thể ảnh hưởng đến mẹ, bào thai và trẻ sơ sinh. Đối với mẹ, làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn ối, vỡ ối non, nhiễm khuẩn tiết niệu, nhiễm khuẩn huyết, sinh non, viêm nội mạc tử cung sau đẻ…[4]. Đặc biệt, đây là tác nhân truyền nhiễm hàng đầu gây ra bệnh tật và tử vong ở trẻ sơ sinh [5], các biểu hiện lâm sàng nghiêm trọng bao gồm nhiễm khuẩn huyết và viêm màng não, thể nhiễm khuẩn sớm ở trẻ sơ sinh từ 01 tuần tuổi trở xuống có liên quan đến nguy cơ tử vong từ 5 – 27% [2]. Một nghiên cứu hệ thống vào năm 2012 cho thấy tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B ở trẻ từ 0 – 89 ngày tuổi là 0,53/ 1000 trẻ sinh sống và tỷ lệ tử vong trung bình là 9,6%, với tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở Châu Phi, Châu Mỹ và thấp nhất ở Tây Thái Bình Dương và Đông Nam Á [6], [7].

Trong hai thập kỷ qua, những phát triển trong sàng lọc, dự phòng và phòng ngừa thứ phát bệnh GBS thể khởi phát sớm đã làm giảm đáng kể tỷ lệ nhiễm bệnh. Vào đầu những năm 1990, có khoảng 1,7/1000 trẻ đẻ sống nhiễm GBS khởi phát sớm. Con số này đã giảm xuống còn 0,34 – 0,37 trên 1000 trẻ đẻ sống trong những năm gần đây. Khoảng 70% trường hợp nhiễm GBS khởi phát sớm là ở trẻ đủ tháng (trên 37 tuần). Đặc biệt là 60% trường hợp nhiễm khuẩn khởi phát sớm xảy ra ở những bệnh nhân có cấy GBS âm đạo trong khoảng từ 35 – 37 tuần [8].

Do tác hại có thể dẫn đến tử vong của nhiễm GBS ở trẻ sơ sinh nên từ những thập niên 80 nhiều tác giả đã cố gắng tìm cách phòng ngừa lây nhiễm GBS từ mẹ sang con. Khi chưa có chiến lược dự phòng bằng kháng sinh, tỉ lệ trẻ nhiễm GBS khoảng 1,5/1000 trẻ đẻ sống và tỷ lệ tử vong sơ sinh do bệnh lý này lên tới 50%. Hiện nay, việc áp dụng phác đồ kháng sinh dự phòng dựa vào kết quả cấy tầm soát bệnh phẩm từ âm đạo – trực tràng khi thai kỳ ở tuổi thai 35 – 37 tuần theo khuyến cáo của CDC và WHO năm 2010, tỷ lệ sơ sinh bị nhiễm khuẩn và tử vong do bệnh lý này đã giảm đáng kể [9].

Tại Việt Nam, tỷ lệ thai phụ mang GBS theo các nghiên cứu vào khoảng 4,5 – 18% [10]. Nghiên cứu của tác giả Trần Quang Hanh vào năm 2020 cho thấy tỷ lệ nhiễm GBS ở phụ nữ mang thai 35 – 37 tuần tại Nghệ An bằng xét nghiệm vi sinh và PCR là 9,2% [4]. Nghiên cứu của tác giả Phùng Thị Lý và cộng sự trên 1.574 thai phụ quản lý thai kỳ tại bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City từ 2019 – 2020, chẩn đoán thai kỳ nhiễm GBS dựa vào nuôi cấy, phân lập và định danh vi khuẩn bằng mẫu dịch âm đạo ở thời điểm 35 – 37 tuần, kết quả cho thấy tỷ lệ thai phụ nhiễm GBS từ 35 – 37 tuần là 17,5% (KTC 95%: 15,5 – 19,7) [10]. Việc sàng lọc nhiễm GBS ở phụ nữ mang thai vẫn chưa được thực hiện thường quy.

Để góp phần cung cấp thông tin về tình hình, tính đề kháng kháng sinh của vi khuẩn GBS nhiễm ở phụ nữ mang thai, nhằm tạo cơ sở xây dựng phương thức dự phòng nhiễm khuẩn sơ sinh, chúng tôi thực hiện đề tài với mục tiêu nghiên cứu tỷ lệ và một số đặc điểm của thai phụ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B có tuổi thai từ 36 tuần.

2.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Tất cả các thai phụ khám thai và quản lý thai nghén  tại Khoa Sản, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang.

Tiêu chuẩn chọn mẫu: Tuổi thai từ 36 tuần trở lên, không đặt thuốc âm đạo trong vòng 48 giờ trước khi đến khám và xét nghiệm dịch âm đạo, được chỉ định và có kết quả xét nghiệm GBS, thai phụ đồng ý tham gia nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ: Thai phụ đang sử dụng kháng sinh, thai phụ thụt rửa âm đạo hoặc đặt thuốc âm đạo trong vòng 48 giờ, thai phụ không đồng ý tham gia nghiên cứu.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi dọc. Mẫu xác định dựa vào ước lượng tỷ lệ với sai số loại 1, α = 0,05, độ chính xác mong muốn d = 0,03. Ước tính tỷ lệ thai phụ nhiễm liên cầu nhóm B theo nghiên cứu của Trần Quang Hiệp tại Bệnh viện Bạch Mai là 6,5%. Cỡ mẫu tối thiểu được tính theo công thức là 259,4, làm tròn là 260 thai phụ.

Kết thúc nghiên cứu, chúng tôi chọn được 302 trường hợp đáp ứng tiêu chuẩn chọn bệnh từ 02/2020 – 02/2021.

2.3. Các bước tiến hành nghiên cứu

Khám thai:

Khai thác phần hành chính và tiền sử thai phụ bao gồm hỏi bệnh để xác định tuổi thai phụ, tuổi thai dựa theo ngày đầu của chu kỳ kinh cuối cùng hoặc ngày sinh dự đoán theo siêu âm quý I, tiền sử sản phụ khoa,…

Thăm khám lâm sàng đánh giá tổng trạng, khám phụ khoa, ghi nhận các triệu chứng lâm sàng. Khám thai thường qui theo tuổi thai: các thai phụ sẽ được khám để đánh giá tình trạng thai nghén, tuổi thai, bề cao tử cung, vòng bụng, nghe tim thai, các bệnh lí phụ khoa đi kèm: u xơ tử cung, u nang buồng trứng…

Lấy bệnh phẩm tầm soát nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B:

Thai phụ nằm trên bàn khám trong tư thế sản khoa. Giải thích cho thai phụ nghe về cách thức lấy bệnh phẩm. Dùng một que tăm bông lấy bệnh phẩm ở âm đạo, cổ tử cung hoặc trực tràng, xoay tăm bông 1 đến 2 vòng rồi rút tăm bông ra, cho vào ống nghiệm, dán nhãn trên ống chứa bệnh phẩm ghi rõ họ tên và ngày lấy mẫu và chuyển bệnh phẩm lên khoa vi sinh trong vòng 3 giờ kể từ khi lấy bệnh phẩm để được phân lập và định danh vi khuẩn và làm kháng sinh đồ.

Nuôi cấy phân lập vi khuẩn và làm kháng sinh đồ:

Các tăm bông được cấy trên môi trường tăng sinh vi khuẩn BHI – Brain Heart Infusion (có kháng sinh để loại bỏ vi khuẩn không phải là liên cầu nhóm B) nhằm mục đích tăng sinh vi khuẩn. Ủ các ống môi trường tăng sinh vi khuẩn có chứa bệnh phẩm ở nhiệt độ 37oC trong 24 giờ trong môi trường CO2 5 – 10%. Phân lập vi khuẩn bằng kĩ thuật cấy 3 chiều trên môi trường thạch máu. Thạch máu được ủ tiếp 24 giờ ở nhiệt độ 37oC, môi trường CO2 5-10%. Quan sát và lựa chọn các khuẩn lạc nghi ngờ là liên cầu nhóm B (có hiện tượng tiêu huyết hoàn toàn). Lấy khuẩn lạc nghi ngờ tiến hành định danh xác định GBS

Quy trình quản lý chất lượng nuôi cấy, phân lập, định danh và làm kháng sinh đồ theo Hướng dẫn giám sát kháng sinh Quốc gia của Cục Quản lý khám, chữa bệnh, Bộ Y tế. Kết quả nuôi cấy được lưu trong cơ sở dữ liệu phòng xét nghiệm, chuyển dữ liệu nuôi cấy đến Hệ thống Giám sát kháng Kháng sinh Việt Nam theo quy định

2.4   Phương pháp xử lý số liệu

Tỷ lệ thai phụ mang GBS và khoảng tin cậy xác định  dựa vào kết quả nuôi cấy, phân lập và định danh GBS dương tính từ mẫu dịch âm đạo so với tổng số thai phụ trên 36 tuần sàng lọc. Tính tỷ lệ %, so sánh sự khác biệt giữa các nhóm bằng test Chi – Square với mức ý nghĩa α = 0,05.

Mức ý nghĩa thống kê chọn p < 0,05.

3.     KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Trong thời gian 02/2020 – 02/2021, có 302 thai phụ từ 36 tuần trở lên phù hợp tham gia nghiên cứu.

Bảng 3.1. Tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B

Kết quả sàng lọc GBS

Số lượng (n)

Tỷ lệ (%)

GBS âm tính

279

92,4

GBS dương tính

23

7,6

Tổng

302

100,0

Tỷ lệ nhiễm GBS (KTC 95%)

7,6% (4,6 – 10,9%)

Tỷ lệ thai phụ nhiễm GBS dựa trên nuôi cấy, phân lập và định danh mẫu dịch âm đạo – trực tràng thai phụ từ 36 tuần trở lên là 7,6% (KTC 95%: 4,6 – 10,9%).

Bảng 3.2. Số lần sẩy thai

Số lần sẩy

GBS (+)

GBS (-)

Tổng

 

n

%

n

%

n

%

Không sẩy

21

91,3

255

91,4

276

91,4

Sẩy 1 lần

2

8,7

20

7,2

22

7,3

Sẩy ≥ 2 lần

0

0

4

1,4

4

1,3

Tổng

23

100%

279

100%

302

100

P

0,820

Thai phụ nhiễm GBS có tiền sử không sẩy thai chiếm tỷ lệ cao nhất 91,3%. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm về tiền sử sẩy thai (p > 0,05).

Bảng 3.3. Số lần sinh con

Số lần sinh con

GBS (+)

GBS (-)

Tổng

 

n

%

n

%

n

%

Chưa sinh con

16

69,6

156

55,9

172

57,0

Sinh 1 con

4

17,4

102

36,6

106

35,0

Sinh 2 con

2

8,7

19

6,8

21

7,0

Sinh ≥ 3 con

1

4,3

2

0,7

3

1,0

Tổng

23

100

279

100

302

100

P

0,120

Thai phụ nhiễm GBS có tiền sử chưa sinh con chiếm tỷ lệ cao nhất 69,6%. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê về số lần sinh giữa các nhóm (p > 0,05).

Bảng 3.4. Triệu chứng nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B

Triệu chứng

GBS (+)

GBS (-)

Tổng

 

n

%

n

%

n

%

Khí hư nhiều

3

13,0

11

3,9

14

4,6

Ngứa âm hộ, âm đạo

4

17,4

15

5,4

19

6,3

Tiểu rát

0

0

1

0,4

1

0,3

Không triệu chứng

18

78,3

263

94,3

282

93,7

P

0,015

Đa số các trường hợp mang thai nhiễm GBS đều không có triệu chứng, với tỷ lệ cao nhất là 93,1%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về triệu chứng nhiễm GBS giữa các nhóm (p > 0,05).

 Bảng 3.5. Tình trạng ối khi chuyển dạ

Tình trạng ối

GBS (+)

GBS (-)

Tổng

 

n

%

n

%

n

%

Rỉ ối

0

0

8

2,9

8

2,6

Ối vỡ non,

Ối vỡ sớm

6

26,1

58

20,8

64

21,2

Ối chưa vỡ

17

73,9

213

76,3

230

76,2

P

0,620

Các thai phụ mang GBS có tỷ lệ rỉ ối, vỡ ối chiếm 26,1%. Ối chưa vỡ chiếm tỷ lệ cao nhất với 76,2%. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê về tình trạng ối khi chuyển dạ giữa các nhóm (p > 0,05).

Bảng 3.6. Kết quả kháng sinh đồ

Kháng sinh

Nhạy cảm

Trung gian

Đề kháng

Tổng

n

%

n

%

n

%

Penicillin

21

91,3

0

0

2

8,7

23

Ampicillin

21

100

0

0

0

0

21

Ceftriaxone

21

100

0

0

0

0

21

Cefotaxime

21

100

0

0

0

0

21

Vancomycin

23

100

0

0

0

0

23

Levofloxacin

18

85,7

0

0

3

14,3

21

Moxifloxacin

19

86,4

0

0

3

13,6

22

Erythromycin

2

50,0

0

0

2

50,0

4

Clindamycin

6

26,1

2

8,7

15

65,2

23

Tỷ lệ nhạy cảm của GBS với kháng sinh Ampicillin, Ceftriaxone, Cefotaxim, Vancomycin là 100%. Tỉ lệ nhạy cảm của GBS với kháng sinh Penicillin, Moxifloxacin, Levofloxacin, Erythromycin, Clindamycin lần lượt là 91,3% – 86,4% – 85,7% – 50,0% – 26,1%.

4.     BÀN LUẬN

4.1 Tỷ lệ thai phụ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B

Trong nghiên cứu chúng tôi, tầm soát cho các thai phụ với tuổi thai từ 36 tuần trở lên có 23/302 trường hợp có kết quả tầm soát GBS dương tính, tương ứng tỷ lệ là 7,6%, ước lượng khoảng tin cậy 95% dao động từ 4,6 – 10,9%. Tỷ lệ này được xác định GBS bằng phương pháp nuôi cấy, phân lập và định danh vi khuẩn theo khuyến cáo của CDC năm 2010 và được WHO đồng thuận khuyến cáo là phương pháp chuẩn để xác định GBS [5]. Như vậy, cách tiếp cận này là đáng tin cậy để đánh giá chính xác tỷ lệ GBS.

Kết quả tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn theo thống kê của CDC 2010 và WHO, theo các tổ chức này thì dao động từ 10 – 30% [5]. Kết quả nghiên cứu chúng tôi cao hơn nghiên cứu của tác giả Aya Goto và cộng sự thực hiện năm 2005 tại tỉnh Nghệ An, Việt Nam, tương đương với nghiên cứu của tác Wenjing Ji năm 2017 là 8,2% và thấp hơn các nghiên cứu đa trung tâm hệ thống được thực hiện bởi các tác giả Neal J RussellMucheye Gizachew, lần lượt là 18,0% và 19,3%. Theo nghiên cứu của tác giả Neal J Russell và cộng sự (2017), tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B trong thai kỳ khác nhau ở các khu vực, thấp nhất là khu vực Đông Á và Nam Á, tương ứng là 11,0% và 12,5%.

Theo nghiên cứu của Hồ Ngọc Sơn năm 2017, tỷ lệ nhiễm GBS âm đạo- trực tràng ở các thai phụ là 17,8%, trong đó nhiễm ở âm đạo là 6,1% và ở trực tràng là 16,9% [11]. Điều đó cho thấy tỷ lệ nhiễm GBS ở thai phụ còn phụ thuộc vào vị trí lấy bệnh phẩm là ở trực tràng hay âm đạo.

Có sự khác biệt trên theo chúng tôi là do thời điểm thực hiện sàng lọc nhiễm GBS: một số nghiên cứu thực hiện trong ba tháng cuối thai kỳ, một số tiến hành từ 34 – 36 tuần hoặc 35 – 37 tuần, một số khác trải dài từ 28 – 37 tuần. Hơn nữa, có thể do phương pháp xác định GBS: chủ yếu là nuôi cấy phân lập và định danh mẫu dịch âm đạo, hoặc kết hợp thêm mẫu trực tràng. Một số nghiên cứu xác định GBS bằng kỹ thuật Real-time PCR có tỷ lệ phát hiện cao hơn so với nuôi cấy. Trong nghiên cứu của chung tôi, bệnh phẩm ở âm đạo hoặc trực tràng, được thực hiện bằng phương pháp nuôi cấy. Ngoài ra, còn có một số khác biệt liên quan đến địa điểm nghiên cứu, đối tượng, cỡ mẫu.

Nhìn chung, tỷ lệ nhiễm GBS thay đổi theo chủng tộc, địa lý nơi sinh sống, cách thiết kế, cách tiến hành nghiên cứu, kỹ thuật lấy bệnh phẩm, kỹ thuật nuôi cấy, môi trường nuôi cấy và phương pháp phát hiện.

4.2.  Đặc điểm số lần sẩy thai

Về tiền sử sẩy thai, trong 23 trường hợp có GBS dương tính thì có 21 trường hợp không có tiền sử sẩy thai chiếm tỷ lệ 91,3% và chỉ có 2 trường hợp sẩy thai (8,7%). Tiền sử sẩy thai không có mối liên quan với tình trạng nhiễm GBS (p > 0,05). Theo nghiên cứu của Lucia Matsiane Lekala, trong nhóm GBS dương tính, tỷ lệ không sẩy thai là 76,8%, tỷ lệ sẩy 1 lần là 18,3%, tỷ lệ nhiễm GBS cao hơn đáng kể ở những phụ nữ có tiền sử sẩy thai và thai chết lưu [12]

4.3.  Đặc điểm số sinh con

Trong nghiên cứu của chúng tôi số thai phụ chưa sinh con lần nào chiếm tỷ lệ cao nhất (57,0%), đã sinh một con chiếm tỷ lệ 35,1%, sinh hai con chiếm 7,0% và sinh ≥ 3 con chiếm tỷ lệ thấp nhất 1,0%. Tổng số chưa sinh và sinh một con chiếm tỷ lệ 92,1%. Điều này phù hợp với thực tế của Việt Nam là mỗi gia đình có từ 1 đến 2 con. Trong nghiên cứu của Mubashir Ahmad Khan tại Iran, tỷ lệ sinh con so chiếm 38,7%, tổng số con so và một lần sinh chỉ chiếm 53,9% [13]. Nhóm thai phụ nhiễm GBS có số lần sinh con từ 01 con trở xuống chiếm đa số (87,0%). Theo nghiên cứu của Trần Quang Hanh, tỷ lệ nhiễm GBS cao nhất ở nhóm thai phụ đã sinh con một lần (10,6%), tiếp theo là nhóm sinh con lần đầu chiếm tỷ lệ 9,3%, thấp nhất ở nhóm sinh con ≥ 3 lần chiếm tỷ lệ 3,7% [4]. So với các nghiên cứu khác trên thế giới, theo nghiên cứu của Lucia Matsiane Lekala tại Nam Phi tỷ lệ cao nhất ở nhóm thai phụ đã sinh đẻ 1 – 2 lần chiếm đa số 62,1% [12].

  • Đặc điểm về triệu chứng lâm sàng

Trong nghiên cứu chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân có triệu chứng viêm nhiễm đường tiết niệu – sinh dục qua thăm khám lâm sàng là 34/302 trường hợp (11,3%) gồm các triệu chứng ngứa âm hộ, âm đạo, tiểu rát, khí hư nhiều. Theo nghiên cứu của Trần Quang Hanh, tỷ lệ viêm nhiễm chung là 36,3% [4], cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Trong số các triệu chứng lâm sàng thì triệu chứng khí hư nhiều chiếm đa số 14/34 trường hợp (41,2%). Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Trần Quang Hiệp, theo đó nhóm nhiều khí hư chiếm tỷ lệ cao nhất với 23,2%.

Nhóm thai phụ nhiễm GBS có triệu chứng chiếm tỷ lệ rất thấp gồm các triệu chứng khí hư nhiều 13,0%, ngứa âm hộ – âm đạo 17,4%. Hầu hết các thai phụ nhiễm GBS không có triệu chứng với tỷ lệ 78,3%. Trong quá trình mang thai âm đạo giãn dài và rộng ra, niêm mạc âm đạo tăng các nếp và nổi rõ các nhú tạo thành khe kẽ nên dễ lắng đọng các chất tiết, âm đạo lại tăng sinh các mạch máu cũng như thay đổi môi trường pH tạo thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn trong đó có GBS. Chính vì triệu chứng lâm sàng của nhiễm GBS không rõ ràng nên rất nhiều thai phụ chủ quan không khám và không tầm soát, dẫn tới hậu quả nhiễm khuẩn cho mẹ và thai nhi, đặc biệt là nhiễm khuẩn sơ sinh mà lẽ ra chúng ta có thể phòng tránh được một cách có hiệu quả. Đây là điều quan trọng trong công tác tuyên truyền và tư vấn trước sinh giúp các thai phụ hiểu được tầm quan trọng của việc nuôi cấy tầm soát tìm GBS trong thời gian mang thai với tuổi thai từ tuần 35 – 37 tuần.

  • Đặc điểm về tình trạng ối trước khi chuyển dạ

Đa số các trường hợp là ối còn nguyên vẹn với tỷ lệ 76,2%, có 21,2% ối vỡ non/ ối vỡ sớm. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê về tính trạng ối vỡ giữa hai nhóm GBS âm tính và GBS dương tính (p > 0,05). Trong 23 trường hợp nhiễm GBS, có 17/23 (tỷ lệ 73,9%) thai phụ với màng ối còn nguyên (ối chưa vỡ) và có 6/23 (tỷ lệ 26,1%) ối vỡ.

Theo khuyến cáo của CDC 2010, tại thời điểm chuyển dạ hoặc vỡ ối, nên dùng kháng sinh dự phòng cho tất cả những thai phụ có kết quả xét nghiệm GBS dương tính. Còn các trường hợp mổ lấy thai trước khi có dấu hiệu chuyển dạ và màng ối còn nguyên vẹn thì không được khuyến cáo sử dụng kháng sinh dự phòng GBS [14]. Theo ACOG, các trường hợp thai phụ nhập viện vì ối vỡ trên thai non tháng, xét nghiệm GBS cần được thực hiện ngay và bắt đầu sử dụng kháng sinh dự phòng. Kháng sinh dự phòng sau đó sẽ được tiếp tục đến lúc sinh hoặc ngưng sau 48 giờ nếu không vào chuyển dạ thật sự [15]. Theo nghiên cứu của Phùng Thị Lý cho thấy thai kỳ mang GBS liên quan đến tăng nguy cơ vỡ ối,  rỉ ối trên nhóm thai non tháng (p = 0,010, OR 2,7; KTC 95%: 1,3 – 5,6) [10].

  • Đánh giá nhạy cảm của liên cầu khuẩn nhóm B với một số kháng sinh

Kháng sinh Penicillin và Ampicillin

Theo khuyến cáo của CDC Hoa Kỳ năm 2010, Penicillin và Ampicillin là 2 kháng sinh được lựa chọn đầu tiên để điều trị dự phòng nhiễm GBS cho thai phụ trong thời điểm chuyển dạ [9]. Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, có 91,3% nhạy cảm (8,7% đề kháng) với Penicillin và 100% nhạy cảm với Ampicillin [16].

Một số nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy tỷ lệ nhảy cảm của GBS với Penicillin và Ampicillin là rất cao. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Châu Anh và cộng sự (2020) cho thấy tất cả các chủng GBS nhạy cảm với Penicillin và kết luận Penicillin vẫn là kháng sinh được lựa chọn đầu tay trong điều trị nhiễm khuẩn do GBS tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế [17]. Nghiên cứu của Trần Quang Hanh tại Nghệ An, của Phùng Thị Lý tại Hà Nội đều cho thấy tỷ lệ này 100% [4], [10]. Theo nghiên cứu của Mubashir Ahmad Khan, tất cả các chủng GBS đều nhạy cảm 100% với penicillin G, ampicillin và vancomycin. Erythromycin và clindamycin cho thấy kháng lần lượt là 15,7% và 5,1% [39]. Nghiên cứu của B. Lu tại Bắc Kinh – Trung Quốc trên 2850 thai phụ có tuổi thai 35 – 37 tuần sàng lọc được 201 thai phụ nhiễm GBS, kết quả kháng sinh đồ cũng cho thấy tất cả đều nhạy cảm với penicillin và ampicillin [18]

Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Trần Quang Hiệp tại Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội, tỷ lệ GBS nhạy với penicillin là 55%, kháng thuốc 42%, trung gian 7%; Đối với ampicillin lần lượt là 21% – 72% – 7% [19]. Có một tỷ lệ kháng thuốc tương đối cao với 2 loại kháng sinh penicillin và ampicillin ở nghiên cứu này.

Kháng sinh nhóm Cephalosporin

Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, có 21/21 mẫu GBS nhạy cảm với các kháng sinh nhóm Cephalosporin như ceftizoxime và cefotaxim. Theo khuyến cáo của CDC 2010, Cephalosporin (thuốc kháng sinh cephazolin) sẽ là kháng sinh được sử dụng để thay thế penicillin khi vi khuẩn kháng với penicillin [14]. Điểm hạn chế trong nghiên cứu của chúng tôi là chưa thử độ nhạy cảm của GBS đối với kháng sinh Cephazolin. Kết quả trong của nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của tác giả Phùng Thị Lý năm 2020, cho thấy tất cả GBS đều nhảy cảm với Ceftizoxime, Cefotaxim và Cephazolin [10].

Kháng sinh Clindamycin và Erythromycin

Theo nghiên cứu của Ahmadzia H. K., nếu bệnh nhân có dị ứng với nhóm Penicillin và nhóm Cephalosporin như phản vệ, phù mạch, suy hô hấp, mày đay thì được phân lập nhảy cảm với Clindamycin và Erythromycin [20]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 2/4 (tỷ lệ 50%) trường hợp GBS nhạy cảm với Erythromycin; Tỷ lệ nhạy cảm của Clindamycin là 26,1% và tỷ lệ đề kháng Clindamycin khá cao 65,2%. Nghiên cứu của tác giả Phùng Thị Lý năm 2020, cho thấy tỷ lệ đề kháng của GBS với Clindamycin và Erythromycin là khá cao, lần lượt là 81,5% và 78,9% [10]. Nghiên cứu của tác giả Hồ Ngọc Sơn tại Bệnh viện khu vực Nam Bình Thuận cho thấy, tỷ lệ GBS kháng cao với các kháng sinh Clindamycin, Erythromycin, (92 – 93%) [11].

Kháng sinh Vancomycin

Tỷ lệ nhạy cảm của GBS với kháng sinh Vancomycin trong nghiên cứu là 100%. Vancomycin là kháng sinh thuộc nhóm glycopeptid, được chỉ định trong những trường hợp nhiễm khuẩn nặng và sử dụng cho những bệnh nhân dị ứng với penicillin. Các nghiên cứu trong nước cũng cho kết quả tượng tự như nghiên cứu của chúng tôi, với tỷ lệ nhạy cảm 100% [4], [10], [19].

5.     KẾT LUẬN

Tỷ lệ thai phụ mang GBS dựa trên nuôi cấy, phân lập và định danh mẫu dịch âm đạo – trực tràng thai phụ từ 36 tuần là 7,6% (KTC 95%: 4,6 – 10,9%).

Thai phụ có tiền sử không sẩy thai chiếm tỷ lệ cao 91,3%. Thai phụ nhiễm GBS có tiền sử chưa sinh con chiếm tỷ lệ 69,6%. Đa số các trường hợp mang thai nhiễm GBS đều không có triệu chứng, với tỷ lệ là 93,1%. Các thai phụ mang GBS có tỷ lệ rỉ ối, vỡ ối chiếm 26,1%.

Tỷ lệ GBS nhạy cảm đối với Penicillin là 91,3%; nhạy cảm 100% với Ampicillin, Cefriaxone, Cefotaxime, Vancomycin; nhạy cảm 85,7% với Levofloxacin, 86,7% với Moxifloxacin và 26,1% với Clindamycin.

6.     KIẾN NGHỊ

Sàng lọc mang GBS nên được áp dụng thường quy ở các thai  phụ có tuổi thai trên 36 tuần, nuôi cấy và làm kháng sinh đồ kết hợp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Viện vệ sinh dịch tễ trung ương (2019), Liên cầu khuẩn, Vi khuẩn học, Nhà xuất bản Y học, tr. 72–75.
  2. Gonçalves B. P., Procter S. R., et al. (2021), ”Estimation of country-level incidence of early-onset invasive Group B Streptococcus disease in infants using Bayesian methods”, PLoS Comput Biol, 17(6), pp. e1009001.
  3. Chen Z., Wen G., et al. (2019), ”Group B streptococcus colonisation and associated risk factors among pregnant women: A hospital-based study and implications for primary care”, International Journal of Clinical Practice, 73(5), pp. e13276.
  4. Trần Quang Hanh (2020), Nghiên cứu thực trạng nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B ở phụ nữ có thai và hiệu quả điều trị bằng kháng sinh trong chuyển dạ phòng lây truyền sang con tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An (2018 – 2019), Luận án tiến sĩ y học, Hà Nội.
  5. ACOG Committee (2020), ”Prevention of Group B Streptococcal Early-Onset Disease in Newborns: ACOG Committee Opinion, Number 797”, Obstet Gynecol, 135(2), pp. e51–e72.
  6. Edwards J. M., Watson N., et al. (2019), ”Group B Streptococcus (GBS) Colonization and Disease among Pregnant Women: A Historical Cohort Study”, Infect Dis Obstet Gynecol, 2019, pp. 5430493.
  7. Madrid L., Seale A. C., et al. (2017), ”Infant Group B Streptococcal Disease Incidence and Serotypes Worldwide: Systematic Review and Meta-analyses”, Clin Infect Dis, 65(Suppl 2), pp. S160–S172.
  8. Morgan J. A., Zafar N., et al. (2021), Group B Streptococcus And Pregnancy, StatPearls, StatPearls Publishing, Treasure Island (FL)
  9. CDC (2010), ”Prevention of Perinatal Group B Streptococcal Disease”, MMWR, 59(10), pp. 1–23
  10. Phùng Thị Lý, Nguyễn Quốc Tuấn, và cộng sự. (2020), ”Tỷ lệ mang liên cầu khuẩn nhóm B ở 35 – 37 tuần thai kỳ và hiệu quả của kháng sinh dự phòng lây nhiễm trước sinh”, 1, 18(3), tr. 19–26
  11. Hồ Ngọc Sơn, Vũ Thị Nhung (2017), ”Tỷ lệ nhiễm Streptococcus nhóm B âm đạo – trực tràng ở phụ nữ mang thai 35- 37 tuần tại Bệnh viện Đa Khoa Khu Vực Nam Bình Thuận”, Y Học TP Hồ Chí Minh, 21(1), tr. 86–91.
  12. Lekala L. M., Mavenyengwa R. T., et al. (2015), ”Risk Factors Associated with Group B Streptococcus Colonization and Their Effect on Pregnancy Outcome”, Journal of Gynecology and Obstetrics, Science Publishing Group, 3(6), pp. 121.
  13. Khan M. A., Faiz A., et al. (2015), ”Maternal colonization of group B streptococcus: prevalence, associated factors and antimicrobial resistance”, Ann Saudi Med, 35(6), pp. 423–427
  14. CDC (2010), ”Prevention of Perinatal Group B Streptococcal Disease”, MMWR, 59(10), pp. 1–23.
  15. ACOG Committee (2011), ”ACOG Committee Opinion No. 485: Prevention of early-onset group B streptococcal disease in newborns”, Obstetrics and gynecology, Obstet Gynecol, Truy cập ngày 16/08/2021;117(4) URL: https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/21422882/ .
  16. Fröhlicher S., Reichen-Fahrni G., et al. (2014), ”Serotype distribution and antimicrobial susceptibility of group B streptococci in pregnant women: results from a Swiss tertiary centre”, Swiss Med Wkly, 144, pp. w13935
  17. Nguyễn Thị Châu Anh, Nguyễn Thị Phúc Lộc và cộng sự. (2021), ”Khảo sát tính nhạy cảm kháng sinh và tỷ lệ mang gene độc lực SCPB và LMB của các chủng Streptococcus Agalactiae phân lập từ phụ nữ mang thai đến khám tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế”, Tạp chí Y Dược học, 10(2), tr. 73.
  18. Lu B., Li D., et al. (2014), ”Epidemiology of Group B streptococcus isolated from pregnant women in Beijing,China”, Clin Microbiol Infect, 20(6), pp. O370-373
  19. Trần Quang Hiệp (2011), Nghiên cứu một số đặc điểm của viêm âm đạo do nhiễm liên cầu B những thai phụ khám và điều trị tại khoa phụ sản Bệnh viện Bạch Mai, Luận án Bác sỹ Chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Hà Nội.
  20. Ahmadzia H. K., Heine R. P. (2014), ”Diagnosis and management of group B streptococcus in pregnancy”, Obstet Gynecol Clin North Am, 41(4), pp. 629–647

Tác giả: Nguyễn Vũ Quốc Huy1, Thái Bằng2, Đinh Thanh Hà2

1 Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
2 Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang

facebook
6

Bình luận 0

Đăng ký
Thông báo về
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận

Bài viết cùng chuyên gia