Đinh Kirschner không mang lại lợi ích cao hơn so với bó bột trong việc cải thiện kết quả điều trị gãy xương cổ tay
Kết hợp xương bằng đinh kim loại Kirschner (đinh K) không mang lại lợi ích cao hơn so với bó bột truyền thống trong việc cải thiện chức năng cổ tay và giảm đau ở bệnh nhân gãy đầu dưới xương quay.
Tác giả: Thạc sĩ, Dược sĩ Pavankumar Kamat
Ngày phát hành: 20 tháng 1 năm 2022
Kết hợp xương bằng đinh kim loại Kirschner (đinh K) không mang lại lợi ích cao hơn so với bó bột truyền thống trong việc cải thiện chức năng cổ tay và giảm đau ở bệnh nhân gãy đầu dưới xương quay. Những phát hiện này đã được báo cáo bởi một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (randomised controlled trial – RCT) được công bố gần đây trên tạp chí The BMJ
Phẫu thuật và bó bột cho gãy xương cổ tay có những ưu và nhược điểm riêng. Mặc dù phẫu thuật kết hợp xương mang lại kết quả về chức năng đáng tin cậy, nhưng cũng mang lại những rủi ro nhất định và có chi phí tốn kém. Mặt khác, bó bột an toàn hơn và tiết kiệm hơn nhưng có thể không mang lại kết quả về chức năng tương tự như phẫu thuật.
Chi tiết nghiên cứu
Trong nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng DRAFFT2 được thực hiện trên 36 bệnh viện ở Vương quốc Anh, 500 bệnh nhân (tuổi trung bình 60,1 tuổi; 83% là nữ giới) bị gãy đầu dưới xương quay có di lệch ra sau được chỉ định ngẫu nhiên để nắn và bó bột (n = 255) hoặc nắn và kết hợp xương bằng đinh K (n = 245). Kết cục chính cần đánh giá bao gồm đau và chức năng cổ tay sau 12 tháng được xác định bằng cách sử dụng thang điểm Patient Rated Wrist Evaluation (PRWE) (tạm dịch: thang điểm tự đánh giá cổ tay)
Nghiên cứu cho thấy 395 (79%) bệnh nhân đã hoàn thành quá trình theo dõi. Cả hai nhóm đều cho thấy sự cải thiện về điểm số PRWE của họ sau 12 tháng kể từ khi chấn thương, nhưng không thể đạt được chức năng cổ tay như trước khi chấn thương. Tại thời điểm 12 tháng, không có sự khác biệt đáng kể về điểm số PRWE giữa nhóm bó bột và nhóm đinh K (giá trị trung bình được điều chỉnh -0,34; Khoảng tin cậy 95% -4,33 đến 3,66; P = 0,87). Tương tự, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm ở thời điểm 3 và 6 tháng.
Cả hai nhóm cũng cho thấy sự cải thiện về chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe được đánh giá bằng chỉ số EQ-5D-5L từ khi bị thương cho đến 12 tháng, nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tại thời điểm 12 tháng (giá trị trung bình được điều chỉnh -0,03; Khoảng tin cậy 95% -0,07 đến 0,02; P = 0,026). Các phát hiện tương tự cũng được quan sát với thang điểm đánh giá dựa trên hình ảnh EQ-5D.
33 (13%) bệnh nhân trong nhóm bó bột cần thực hiện kết hợp xương do tình trạng mất cố định xương trong 6 tuần đầu tiên, trong khi chỉ 1 (0,4%) bệnh nhân trong nhóm đinh K cần phẫu thuật lại (OR 0,02, khoảng tin cậy 95% 0,001 đến 0,10; P <0,001).
Thử nghiệm có một số hạn chế, quan trọng nhất là không gây mù cho cả bác sĩ điều trị và bệnh nhân.
Các tác giả kết luận: “Bó bột là phương pháp điều trị đầu tay có thể chấp nhận được sau khi nắn gãy đầu xa xương quay có di lệch ra sau. Điều trị bằng bó bột tránh được chi phí điều trị cao và rủi ro phẫu thuật cho 7 trong số 8 bệnh nhân. Tuy nhiên, cần theo dõi cẩn thận với 1 trong 8 bệnh nhân được bó bột cần can thiệp phẫu thuật sau đó vì không thể duy trì tình trạng cố định xương.”
Thử nghiệm được tài trợ bởi Chương trình Đánh giá Công nghệ Y tế (Health Technology Assessment-HTA) của Viện Nghiên cứu Y tế Quốc gia Vương quốc Anh (UK National Institute for Health Research-NIHR) và được hỗ trợ bởi Trung tâm Nghiên cứu Y sinh NIHR Oxford (NIHR Oxford Biomedical Research Centre). Các tác giả tuyên bố hỗ trợ từ Chương trình NIHR HTA của Vương quốc Anh cho nghiên cứu đã nộp.
Tài liệu tham khảo
Costa ML, Achten J, Ooms A, et al; DRAFFT2 Collaborators. Surgical fixation with K-wires versus casting in adults with fracture of distal radius: DRAFFT2 multicentre randomised clinical trial. BMJ. 2022 Jan 19. doi: 10.1136/bmj-2021-068041. PMID: 35045969.