MỚI
load

Bản đồ mạch máu của phức hợp quầng núm vú trên MRI

Ngày xuất bản: 27/09/2025

1.Tóm tắt

Mục tiêu của nghiên cứu là xác định và phân loại nguồn cấp máu cho phức hợp quầng – núm vú (NAC) trên cộng hưởng từ (MRI) vú, nhằm hỗ trợ lập kế hoạch phẫu thuật bảo tồn và tái tạo vú. Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên 30 bệnh nhân nữ (60 vú) chụp MRI vú tại Bệnh viện Vinmec Times City từ 03/2022 đến 10/2022, loại trừ bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật vú. Phân loại nguồn cấp máu NAC dựa trên 5 vùng giải phẫu. Kết quả cho thấy tổng cộng 114 mạch nguồn được ghi nhận, trong đó nhóm trong (loại I) chiếm ưu thế, với 33 vú chỉ có nguồn máu từ nhóm này. Có 25 vú có nguồn máu đa vùng, chủ yếu kết hợp loại I và II. Không ghi nhận mạch nguồn từ vùng IV và V, gợi ý vị trí tối ưu cho đường rạch da là góc phần tư dưới ngoài (LOQ). MRI vú không chỉ có giá trị chẩn đoán mà còn hữu ích trong đánh giá nguồn máu nuôi NAC, giúp giảm nguy cơ biến chứng trong phẫu thuật bảo tồn và tái tạo.

2. Mục tiêu học tập

  • Hiểu vai trò của MRI trong đánh giá nguồn máu nuôi NAC
  • Nhận biết các phân loại giải phẫu cấp máu NAC
  • Ứng dụng bản đồ mạch máu NAC trên MRI trong lập kế hoạch phẫu thuật bảo tồn và tái tạo vú

3. Mở đầu

Ung thư vú là bệnh lý ác tính thường gặp nhất ở phụ nữ. Với sự phát triển của chẩn đoán sớm và điều trị toàn diện, phẫu thuật bảo tồn vú đang ngày càng thay thế dần cắt bỏ toàn bộ. Trong bối cảnh này, phẫu thuật tạo hình – ung thư (oncoplastic surgery) đóng vai trò quan trọng khi vừa đảm bảo nguyên tắc ung thư học, vừa đem lại kết quả thẩm mỹ [1,2].

Tuy nhiên, một thách thức lớn của kỹ thuật này là đảm bảo tưới máu đầy đủ cho phức hợp quầng – núm vú (NAC). Hoại tử NAC không chỉ làm giảm chất lượng thẩm mỹ mà còn gây biến chứng nặng nề. Các nghiên cứu giải phẫu tử thi đã mô tả nguồn máu nuôi NAC từ động mạch ngực trong, động mạch ngực ngoài, động mạch liên sườn và cùng vai – ngực. Cộng hưởng từ (MRI) vú, vốn được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán và tầm soát ung thư vú, có thể khai thác để lập bản đồ mạch máu NAC, hỗ trợ lựa chọn cuống mạch và đường rạch tối ưu [3,4].

Trên thế giới, một số nghiên cứu đã chứng minh tính khả thi của phương pháp này, nhưng tại Việt Nam chưa có báo cáo hệ thống. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm cung cấp dữ liệu khoa học phục vụ thực hành phẫu thuật

4. Nội dung nghiên cứu

4.1. Cơ sở giải phẫu

Nguồn cấp máu chính cho vú gồm: động mạch ngực trong, ngực ngoài, động mạch liên sườn trước và động mạch cùng vai – ngực. Các nhánh từ động mạch ngực trong thường xuất phát từ khoang liên sườn 1–4, trong đó phổ biến nhất là từ khoang liên sườn số 2. Động mạch ngực ngoài thường phát sinh ở mức liên sườn 2–4, chạy dọc dây chằng bên của vú. Các động mạch liên sườn trước có nhánh xuyên lớn ở mức khoang liên sườn 4–6, hướng tới vùng núm vú.

  • Động mạch ngực trong

Marcus đã báo cáo các nhánh xuất phát từ 4 KLS trên, hay gặp nhất là từ KLS số 2, ít hơn từ KLS 3, và ít nhất từ KLS 1, 4.


Hình 1. Cung cấp máu cho vú bằng các nhánh xuyên của động mạch ngực trong

  • Động mạch liên sườn trước

Salmon coi động mạch liên sườn trong là các nhánh sau của động mạch vú trong (ngực) xuyên qua KLS thứ 4 và thứ 5 để cấp máu cho vú.

Palmer và Taylor, nghiên cứu nguồn cung cấp mạch máu của thành ngực trước, đã chứng minh sự tập trung của các lỗ xuyên lớn tồn tại dọc theo nếp nhăn dưới vú phát sinh từ các mạch liên sườn trước ở KLS 5,6.

Würinger và cộng sự. mô tả các nhánh xuyên qua da từ các động mạch liên sườn thứ tư, thứ năm và hiếm khi thứ sáu chạy trong lớp đuôi của vách ngăn ngang của vú về phía núm vú.

  • Động mạch ngực ngoài

– O’Dey : có 3 nhánh từ động mạch ngực ngoài cấp máu cho phức hợp núm vú-quầng vú, đường kính trung bình 1,5 ± 0,3 mm

– Würinger : Các nhánh từ động mạch ngực ngoài phát sinh ở mức liên sườn 2,3, 4 chạy trong dây chằng dọc bên của vú về phía núm vú.

Hình 2. Sơ đồ phân loại các mạch nguồn cung cấp NAC

Phân thành 5 vùng  giải  phẫu cấp máu cho NAC

Loại I : Vùng bên trong (màu đỏ)

Loại  II: Vùng bên ngoài (màu xanh lá)

Loại III: Vùng quanh núm vú (màu cam)

Loại IV: Vùng trung tâm dưới (màu xanh dương)

Loại V: Vùng trung tâm trên (màu vàng)

4.2. Đối tượng và phương pháp

  • Đối tượng: 30 bệnh nhân nữ (60 vú), không có tiền sử phẫu thuật vú.
  • Thời gian & địa điểm: 03/2022 – 10/2022, Bệnh viện Vinmec Times City.
  • Thiết kế: nghiên cứu hồi cứu.
  • Kỹ thuật MRI: Máy Siemens 1.5 Tesla, các chuỗi xung T1W axial, T1 fatsat axial, T2W, T2 TIRM, diffusion, ADC map, dynamic có tiêm thuốc đối quang từ.

4.3. Kết quả

Bảng 1. Phân bố số vú được cấp máu cho phức hợp quầng núm vú (NAC) trên cộng hưởng từ (n = 60 vú)

Phân loại

Vú phải

Vú trái

Tổng

Loại I ( only)

16

17

33

Loại II(only)

2

0

2

Loại III(only)

0

0

0

Loại IV(only)

0

0

0

Loại V(only)

0

0

0

Loại I và II

11

11

22

Loại I và III

1

2

3

          Tổng

30

30

60

Trong 60 vú được phân tích, 33 vú chỉ có nguồn máu loại I, 2 vú chỉ có loại II, 22 vú có kết hợp loại I + II và 3 vú có loại I + III. Không có trường hợp nào có nguồn máu duy nhất từ loại III, IV hoặc V.

Bảng 2. Phân bố số mạch nguồn cho phức hợp quầng núm vú (NAC) trên cộng hưởng từ (n = 114 mạch)

Phân loại

Vú phải (n)

Vú trái (n)

Loại IA

28

28

Loại IB

9

12

Loại IC

2

1

Loại IIA

12

11

Loại IIB

3

3

Loại IIC

1

1

Loại III

1

2

Loại IV

0

0

Loại V

0

0

Trong tổng số 114 mạch quan sát được, nguồn máu loại IA chiếm ưu thế (49.1%). Các nhánh IIA chiếm 20.2%. Các tiểu loại khác xuất hiện với tỷ lệ thấp. Không ghi nhận mạch từ vùng IV và V.

5. Bàn luận

Kết quả nghiên cứu khẳng định nguồn máu từ động mạch ngực trong (loại I, đặc biệt IA) là ưu thế trong tưới máu NAC. Điều này tương đồng với nghiên cứu của Seitz (2015), trong đó động mạch ngực trong chiếm ưu thế ở 50/52 trường hợp.

Không ghi nhận mạch nguồn từ vùng IV và V, kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Cabral (2017), cho thấy NAC không có nguồn máu ưu thế từ góc phần tư dưới ngoài [3]. Từ đó, có thể khẳng định LOQ là vị trí an toàn nhất để rạch da trong phẫu thuật bảo tồn và tái tạo vú.

Điểm mạnh của nghiên cứu là tận dụng dữ liệu MRI thường quy mà không cần thêm thời gian chụp, nhưng vẫn cung cấp thông tin giá trị trong thực hành phẫu thuật. Hạn chế của nghiên cứu là cỡ mẫu nhỏ và chưa phân tích mối liên quan với kích thước hoặc thể tích vú.

6. Kết luận

MRI vú có giá trị trong việc lập bản đồ mạch máu nuôi NAC, góp phần nâng cao độ an toàn và hiệu quả của phẫu thuật bảo tồn, tái tạo vú. Vị trí LOQ được xác định là tối ưu cho đường rạch da. Bệnh nhân chỉ có một nguồn máu nuôi NAC cần được đánh giá kỹ lưỡng vì nguy cơ hoại tử cao.

Tài liệu tham khảo

  1. Seitz IA, Nixon AT, Friedewald SM, et al. “NACsomes”: A new classification system of the blood supply to the nipple-areola complex (NAC) based on diagnostic breast MRI exams. J Plast Reconstr Aesthet Surg. 2015;68:792–799.
  2. Van Deventer PV, Graewe FR. The blood supply of the breast revisited. Plast Reconstr Surg. 2016;137:1388–1397.
  3. Van Deventer PV. The blood supply to the nipple-areola complex of the human mammary gland. Aesthetic Plast Surg. 2004;28:393–398.
  4. Taylor GI, Pan WR. The Angiosome Concept and Tissue Transfer. St. Louis: Quality Medical Publishing; 2014.
  5. Manchot C. Die Hautarterien des Menschlichen Körpers. Leipzig: FCW Vogel; 1889.
  6. Cabral F, Salvador J, Barroca R, et al. MRI in pre-operative NAC vascular map. 2017.


Tác giả: 

BSCKII. Đặng Thị Ngọc Anh¹, TS.BS. Nguyễn Thu Hương¹, PGS.TS. Bùi Văn Giang²

¹  Khoa Vú – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmc Times City
²  Viện Khoa học Sức khỏe, Trường Đại học VinUni

facebook
19

Bình luận 0

Đăng ký
Thông báo về
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận

Bài viết cùng chuyên gia