MỚI
load

Kết quả sống thêm 3 năm và độc tính hóa xạ trị tiền phẫu ung thư thực quản tiến triển tại chỗ, tại vùng sử dụng kỹ thuật VMAT – DIBH

Ngày xuất bản: 17/11/2025

TÓM TẮT

Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng, kết quả sống thêm bước đầu và độc tính điều trị khi áp dụng kĩ thuật xạ trị điều biến liều thể tích cung tròn và nhịn thờ thì hít vào sâu (VMAT-DIBH) trong hóa xạ trị tiền phẫu ung thư thực quản giai đoạn tại chỗ-tại vùng

Đối tượng và phương pháp: 35 người bệnh với chẩn đoán ung thư thực quản từ tháng 1/2019 đến tháng 6/2024 được đưa vào nghiên cứu. Các bệnh nhân này được xạ trị tiền phẫu sử dụng kĩ thuật VMAT-DIBH với liều 41.4-50Gy (trong 23-25 phân liều), kết hợp hoá chất đồng thời. Các dữ liệu lâm sàng và thông số tính liều được thu thập và kiểm định để xác định các yếu tố có giá trị tiên lượng cho đáp ứng, sống thêm và độc tính điều trị

Kết quả: 33/35 (94.2%) người bệnh hoàn thành phác đồ hoá xạ trị tiền phẫu theo kế hoạch. 30 người bệnh (85.7%) được phẫu thuật cắt thực quản triệt căn và đều đạt diện cắt R0, 46.7% số ca đạt đáp ứng hoàn toàn trên bệnh phẩm sau mổ (pCR). Độc tính cấp liên quan điều trị thường gặp nhất là viêm thực quản (độ ³2: 60%), biến chứng muộn (độ ³2) thường gặp bao gồm hẹp miệng nối (6.7%), viêm phổi xạ trị (2.9%). Với thời gian theo dõi trung bình là 20.4 tháng, sống thêm toàn bộ (OS), sống thêm không bệnh (DFS) và sống thêm không tiến triển tại chỗ-tại vùng (LRPFS) 3 năm lần lượt là: 69.4%, 61.4% và 64.1%. Đạt được đáp ứng bệnh học toàn bộ sau mổ (pCR) là yếu tố tiên lượng tích cực của OS và DFS (p<0.05).

Kết luận: Hoá xạ trị tiền phẫu sử dụng kĩ thuật VMAT-DIBH trên người bệnh ung thư thực quản giai đoạn tiến triển tại chỗ-tại vùng cho kết quả đáp ứng tốt, với tỉ lệ độc tính liên quan điều trị được hạn chế ở mức chấp nhận được. Các kết quả về sống thêm sẽ cần số mẫu bệnh nhân lớn và thời gian theo dõi dài hơn để có thể phân tích.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Ung thư thực quản là khối u ác tính thường gặp của đường tiêu hóa, đứng thứ 12 về tỉ lệ mắc và thứ 7 về tỉ lệ tử vong do ung thư tại Việt Nam theo GLOBOCAN 2022, riêng ở nam đây là khối u ác tính thường gặp xếp hạng thứ 8. Đa số người bệnh được chẩn đoán ở giai đọan tiến triển hoặc di căn xa, với kết quả điều trị hạn chế, thời gian sống thêm thường ngắn. Tuy vậy, với kết quả chính thức từ thử nghiệm mang tính bước ngoặt CROSS (2012), đã cung cấp bằng chứng mạnh mẽ cho thấy sự vượt trội của hóa xạ trị tiền phẫu ở khả năng đảm phẫu thuật triệt căn và cải thiện thời gian sống thêm so với phẫu thuật đơn thuần [1]. Hóa xạ trị đồng thời tiền phẫu nhanh chóng được chấp nhận là điều trị tiêu chuẩn cho ung thư thực quản giai đoạn tiến triển tại chỗ, tại vùng, có thể phẫu thuật, được cập nhật và khuyến cáo trong các hướng dẫn điều trị quốc tế lớn (NCCN – Mỹ, ESMO – Châu Âu).

Một trong những thách thức hàng đầu của xạ trị ung thư thực quản nói chung và ung thư tầng ngực-bụng nói riêng là kiểm soát sai số của di động cơ quan do hoạt động hô hấp. Nhiều phương pháp kiểm soát nhịp thở tiên tiến đã được phát triển, trong đó phải kể đến Nhịn thở thì hít vào sâu  (Deep Inspiration Breath Hold – DIBH ). Trong kĩ thuật này, người bệnh được hướng dẫn thở đều, sau đó hít sâu ở mức dụng nạp được và duy trì nhịn thở trong thời gian bắn tia. Bằng cách thực hiện các động tác này một cách hằng định, phương pháp này cho phép cải thiện khả năng tái lập, giảm di động thể tích và vị trí cơ quan, với kết quả là giảm liều chiếu mô lành, giảm tác dụng không mong muốn, trong khi vẫn đảm bảo được bao phủ liều lên thể tích điều trị [2], [3].

Việc đánh giá đáp ứng lâm sàng, kết quả điều trị và hồ sơ độc tính của phương pháp này là rất cần thiết để làm rõ hiểu quả và tính an toàn của phương pháp này, tuy vậy, dữ liệu về ứng dụng kĩ thuật này trong điều trị ung thư thực quản ngực tại Việt Nam còn hạn chế. Tại Trung tâm xạ trị Vinmec Times City, chúng tôi áp dụng đồng thời DIBH và kĩ thuật Điều biến liều thể tích cung tròn (DIBH-VMAT) từ năm 2018 cho các ung thư lồng ngực, trong đó có ung thư thực quản. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu: Đánh giá kết quả sống thêm và độc tính hóa xạ trị tiền phẫu ung thư thực quản ngực tiến triển tại chỗ-tại vùng có thể phẫu thuật áp dụng kĩ thuật DIBH-VMAT.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

2.1. Đối tượng

Nghiên cứu thực hiện trên các bệnh nhân (BN) ung thư thực quản ngực giai đoạn II – IVa (theo hệ thống phân loại AJCC phiên bản 8 (2017), được chỉ định hóa xạ trị tiền phẫu với kĩ thuật VMAT-DIBH tại Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec Times City giai đoạn 1/2019-6/2024, thể trạng điểm ECOG 0-2, tuổi 18-75. Tất cả BN được phê duyệt chiến lược điều trị, phác đồ tại Hội đồng quản lý đa chuyên khoa bệnh ung thư (Multidisciplinary Tumor Board), được phẫu thuật viên thực quản đánh giá có thể mổ được.

Những trường hợp bị loại trừ khỏi nghiên cứu bao gồm: BN ung thư thực quản ngực trên, cổ (tâm khối u cách cung răng trên dưới 25cm trên nội soi hoặc ở trên tĩnh mạch đơn trên phim chụp) hoặc và BN không có khả năng nhịn thở hiệu dụng để thực hiện kĩ thuật DIBH, BN giai đoạn di căn xa, tiền sử xạ trị vùng ngực hoặc có ung thư khác ở thời điểm chẩn đoán.

2.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu và tiến cứu kết hợp theo dõi dọc.

2.2.1. Quy trình kĩ thuật xạ trị

Mô phỏng xạ trị

Trước khi mô phỏng, bệnh nhân được tư vấn và huấn luyện kỹ thuật nhịn thở thì hít vào sâu (DIBH) nhằm đảm bảo khả năng giữ hơi ổn định ≥15–20 giây. Bệnh nhân nằm ngửa trên bàn CT, tay đưa cao qua đầu, cố định bằng wingboard và vaclock. Marker hô hấp được gắn tại vị trí mũi ức, kết nối hệ thống theo dõi nhịp thở (RPM – Varian) để đồng bộ thời điểm phát tia.

Bệnh nhân được hướng dẫn hít sâu đến mức đã tập luyện trước, duy trì nhịn thở khi tín hiệu hô hấp đạt ngưỡng đã định (±3 mm so với vị trí chuẩn). Chụp CT mô phỏng trong thì nhịn thở (DIBH-CT) với lát cắt ≤2,5 mm, từ xương móng đến bờ dưới gan, có tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch. Hình ảnh PET/CT (nếu có) được hợp nhất cùng ảnh DIBH-CT để xác định chính xác GTV. Quy trình này tuân thủ khuyến cáo của AAPM TG-76 và các nghiên cứu trước đó nhằm đảm bảo tái lập thể tích mục tiêu, giảm di động khối u do hô hấp, đồng thời hạn chế liều chiếu tới tim, phổi và các cơ quan nguy cấp khác [2], [3].

Xác định các thể tích

Thể tích u đại thể (Gross Tumor Volume – GTV) bao gồm GTVp (u nguyên phát), GTVn (hạch di căn).

Thể tích bia lâm sàng (Clinical Target Volume – CTV) bao gồm:

CTVp (u nguyên phát)= GTVp + 2-3cm phía trên – dưới, 0,5cm các phía trước sau và trái phải.

CTVn = GTVn + 0,5cm tất cả các hướng, có lược bỏ những vùng CTV chồng lấn lên vùng giải phẫu xung quanh không có bằng chứng nghi ngờ bị xâm lấn.

CTVsubclinical (Vùng hạch dự phòng): từ thượng đòn đến hạch cạnh động mạch thân tạng với u thực quản giữa; hạch cạnh thực quản cổ đến hạch cạnh động mạch thân tạng với u thực quản thấp; và tự hạch cạnh thực quản dưới đến hạch quanh động mạch gan chung và động mạch lách với ung thư đoạn nối thực quản-dạ dày

Thể tích bia lập kế hoạch (Planning Target Volume – PTV) = CTV + 5-10mm tùy hướng.

Xác định các cơ quan nguy cơ (OARs – Organs at Risk) bao gồm: Lungs (Toàn bộ 2 bên phổi), Heart (Tim), Glnd_Thyroid (Tuyến giáp), SpinalCord (Tủy), Liver (Gan), Stomach (Dạ dày)…

Trải liều xạ tiền phẫu

41,4Gy/ 23 buổi xạ (thử nghiệm CROSS) hoặc 45-50Gy/ 25 buổi xạ (thử nghiệm CALGB 9781, cho các khối u/hạch lớn, nguy cơ diện cắt dương tính). Xạ trị 5 ngày/tuần

Hóa chất kết hợp đồng thời

BN được truyền hóa chất đồng thời, phác đồ Paclitaxel – Carboplatin hàng tuần (theo thử nghiệm CROSS) hoặc Cisplatin + 5-FU (theo thử nghiệm CALGB 9781)

Phẫu thuật

BN được đánh giá trước phẫu thuật vào thời điểm tuần 3-4 sau hóa xạ trị tiền phẫu. Đánh giá sử dụng phim chụp CT-Scanner toàn thân có tiêm thuốc hoặc 18FDG – PET/CT, đáp ứng được lượng hoá theo tiêu chuẩn RECIST 1.1. Khả năng phẫu thuật triệt căn được đánh giá lại bởi phẫu thuật viên dự kiến trực tiếp thực hiện phẫu thuật. BN được phẫuf thuật triệt căn cắt thực quản toàn bộ, nạo vét hạch chặng 2, tạo hình thực quản, trong khoảng 4-8 tuần sau kết thúc điều trị tiền phẫu. Sau mổ, BN được chăm sóc theo quy trình Chăm sóc chu phẫu hồi phục sớm ( ERAS – Enhance Recovery After Surgery guideline protocol).

Khám và theo dõi

Trong thời gian hóa xạ trị, BN được khám đánh giá điều dưỡng hàng ngày, bác sĩ xạ trị khám tối tiểu 1 tuần/lần. Sau kết thúc điều trị triệt căn được khám theo dõi định kì mỗi 3 tháng trong 2 năm đầu, sau đố mỗi 6 tháng trong 2-5 năm tiếp theo.

2.2.2. Thu thập, xử lí số liệu

Số liệu được thu thập theo phiếu nghiên cứu, xử lí trên phần mềm SPSS v.26.0, sống thêm được ước lượng theo Kaplan-Meier, thời điểm bắt đầu tính sống thêm là khi bắt đầu hóa xạ trị, đến khi có sự kiện xảy ra. Độc tính được đánh giá theo phân loại của RTOG và CTCAE v.5.0 2017.

3. KẾT QUẢ

Nghiên cứu thu thập được 35 BN thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn. Chúng tôi ghi nhận được các kết quả chính như sau: 

3.1. Đặc điểm chung nhóm đối tượng nghiên cứu

Bảng 1. Một số đặc điểm của nhóm đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm

n

%

Tuổi (năm)

Trung bình (khoảng)

60.3  (45 ÷ 74)

Giới

Nam

35

100

Nữ

0

0

Thói quen sinh hoạt

Nghiện rượu

23

65.7

Hút thuốc lá

25

71.4

Toàn trạng (ECOG)

0

26

74.3

1

9

25.7

2

0

0

Triệu chứng ban đầu

Khó nuốt

29

82.9

Đau ngực

5

14.3

Hạch cổ

2

5.7

Gầy sút cân (>5%)

6

17.1

Vị trí u nguyên phát

Ngực trên

0

0

Ngực giữa

18

51.4

Ngực dưới – đoạn nối

17

48.6

Giải phẫu bệnh

Ung thư biểu mô tế bào vảy

33

94.3

Ung thư biểu mô tuyến

2

5.7

Độ mô học

Độ 1

1

4.3

Độ 2

23

65.7

Độ 3

3

8.6

Giai đoạn u tại chỗ

T1-2

9

25.7

T3

23

65.7

T4a

3

8.6

Giai đoạn hạch vùng

N0

4

11.4

N1

11

37.1

N2

14

40

N3

4

11.4

Giai đoạn bệnh (AJCC)

II

7

20

III

23

65.7

IVa

5

14.3

Nhận xét: Nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu có tuổi trung bình 60.3, toàn bộ là nam giới, đa số có điểm toàn trạng tốt, mức ECOG 0-1 chiếm 100%. 80% số người bệnh được chẩn đoán ở giai đoạn III-IVa, với thể mô bệnh học chiếm ưu tế là Ung thư biểu mô tế bào vảy (94.3%).

3.2. Đặc điểm điều trị, đáp ứng và biến chứng

Bảng 2. Phương pháp điều trị và đáp ứng

 

n (tỉ lệ %)

Phác đồ hóa chất đồng thời

Paclitaxel – Carboplatin

30 (85.7%)

Cisplatin – 5FU

 5  (14.3%)

Mở thông dạ dày

4  (11.4%)

Mức liều

41.4 Gy

30 (85.7%)

>41.4 Gy

5 (14.3%)

Tuân thủ điều trị

Hoàn thành điều trị

32 (91.4%)

Ngắt quãng điều trị

3 (8.6%)

Đáp ứng cơ năng (nuốt nghẹn)

Cải thiện

19 (54.3%)

Không đổi

12 (34.3%)

Tăng lên

4 (11.4%)

Đáp ứng hình ảnh

Đáp ứng hoàn toàn – CR

4 (11.4%)

Đáp ứng một phần – PR

27 (53.3%)

Bệnh ổn định – SD

3 (8.6%)

Bệnh tiến triển di căn xa

1 (2.9%)

BN không giảm cân sau xạ

25 (71.4%)

Đáp ứng bệnh học sau mổ (n=30)

Đáp ứng hoàn toàn

14 (46.7%)

Đáp ứng một phần

16 (53.3%)

Bệnh tiến triển tại chỗ tại vùng

0 (0%)

Nhận xét: 94.2% (33/35) BN hoàn thành kế hoạch hóa xạ trị tiền phẫu theo dự kiến, 3 trường hợp ngắt quãng >5 ngày do độc tính sốt hạ bạch cầu trung tính. 30 BN (85.7%) được phẫu thuật triệt căn, 5 trường hợp không thể phẫu thuật do: bệnh lý nội khoa nặng (2), đánh giá lại không có khả năng phẫu thuật do xâm lấn xung quanh (2) và bệnh tiến triển di căn xa sau hóa xạ (1). Tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn bệnh học (pCR) là 46.7%.

Bảng 3:  Độc tính sớm và muộn

 

Độ 1

Độ 2

Độ 3

Độ 4

Độc tính huyết học

Thiếu máu

18 (51.4%)

4 (11.4%)

0 (0%)

0 (0%)

Giảm bạch cầu TT

7 (20%)

7 (20%)

6 (17.1%)

0 (0%)

Sốt giảm bạch cầu

 

 

4 (11.4%)

0 (0%)

Giảm tiểu cầu

14 (40%)

2 (5.7%)

0 (0%)

0 (0%)

Độc tính cấp ngoài huyết học

Nôn

12 (34.3%)

0 (0%)

0 (0%)

0 (0%)

Viêm thực quản xạ trị

10 (28.6%)

12 (34.3%)

9 (25.7%)

0 (0%)

Viêm da xạ trị

12 (34.3%)

0 (0%)

0 (0%)

0 (0%)

Nhiễm trùng phổi

0 (0%)

1 (2.9%)

0 (0%)

0 (0%)

Giảm cân

5 (14.2%)

2 (5.7%)

 

 

Độc tính muộn

Hẹp miệng nối (n=30)

7 (23.3%)

2 (6.7%)

0 (0%)

0 (0%)

Hội chứng trào ngược

5 (14.7%)

0 (0%)

0 (0%)

0 (0%)

Viêm phổi xạ trị

5 (14.3%)

1 (2.9%)

0 (0%)

0 (0%)

Biến chứng tim mạch

1 (2.9%) (tràn dịch màng tim)

0 (0%)

0 (0%)

0 (0%)

Nhận xét: 34.3% (12/35) BN gặp độc tính cấp độ 3, bao gồm: viêm thực quản (25.7%), hạ bạch cầu trung tính (17.1%) và sốt hạ bạch cầu (11.4%), không có độc tính cấp độ 4. Các độc tính muộn sau điều trị xảy ra trên 54.3% (18/35) BN, phần lớn là độ 1, không ghi nhận độc tính muộn độ ≥ 3, với tình trạng thường gặp nhất là hẹp miệng nối thực quản (30%).

3.3. Kết quả phân tích sống thêm và tiến triển

Người bệnh trong nghiên cứu được theo dõi trong thời gian trung vị 20.4 tháng (5.7 – 45.1 tháng)

Bảng 4. Thời gian sống thêm

Hình 1. Sống thêm toàn bộ-OS của nhóm đối tượng nghiên cứu (tháng)

Hình 2. Sống thêm không bệnh (DFS) của nhóm đối tượng nghiên cứu (tháng) 

Sống thêm theo
Kaplan-Meier

1 năm

2 năm

3 năm

OS (sống thêm toàn bộ)

88.3%

73.7%

69.4%

DFS (sống thêm không bệnh)

79.5%

64.2%

61.4%

LRPFS (sống thêm không tiến triển tại chỗ- tại vùng)

87.9%

69.7%

64.1%

Nhận xét: Tỉ lệ sống thêm toàn bộ, sống thêm không bệnh 3 năm lần lượt là 69.4% và 61.4%  

Tiến triển và tái phát: 10 trường hợp tiến triển. 7 trường hợp tái phát tại chỗ-tại vùng, các vị trí thường gặp là miệng nối thực quản-dạ dày (02), hạch (03 trong đó hạch rốn phổi (01), hạch tâm vị (01) và hạch cổ thấp (02)), 1 ca tái phát tại phần mềm cạnh sống. Tái phát trong trường chiếu chiếm 57.1% (4/7). 7 ca có phát hiện di căn, các vị trí thường gặp là gan (02), xương (02), phổi (01), thành bụng (01). Tất cả các trường hợp tiến triển đều xảy ra trong 2 năm đầu sau điều trị. Ghi nhận 9 trường hợp tử vong, trong đó: 7 ca do K thực quản tiến triển-di căn, 2 ca do nguyên nhân khác (viêm phổi (01) và ung thư khác (01)).

Bảng 5:  Phân tích các yếu tố ảnh hưởng sống thêm

Biến độc lập

OS 2 năm (%)

p-value

DFS 2 năm (%)

p-value

Giai đoạn bệnh

Giai đoạn II-II

72.7%

0.665

70.6%

0.442

Giai đoạn IVa

80%

60%

Giai đoạn hạch

N0

84.7%

0.049

80.2%

0.79

N(+)

58.1%

74.6%

Đáp ứng bệnh học

pCR

100%

0.041

92.9%

0.028

pPR

52.2%

51.6%

SUVmax U nguyên phát trên PET

Dưới 12

72.7%

0.717

 

70.7%

0.581

Trên 12

63.8%

62.9%

Vị trí u

1/3 giữa

76.2%

0.881

80.2%

0.263

1/3 dưới

64%

74.6%

Chú thích: pCR: đáp ứng bệnh học hoàn toàn, pPR: đáp ứng một phần, OS: sống thêm toàn bộ, DFS: sống thêm không bệnh

Nhận xét: Đáp ứng hoàn toàn với điều trị tiền phẫu (pCR) là yếu tố tiên lượng thuận lợi của sống thêm toàn bộ (OS) và sống thêm không bệnh (DFS). Ngoài ra, di căn hạch N(+) là yếu tố liên lượng xấu của OS.

Bảng 6Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tỉ lệ pCR

Biến độc lập

Tỉ lệ pCR

Giá trị p

Thời gian nghỉ sau xạ

< 6 tuần

43.8%

0.117

³ 6 tuần

50%

Liều xạ

41,4Gy

40.1%

0.67

50Gy

50%

Phác đồ hoá chất

Cisplatin -5FU

66.7%

0.55

Paclitaxel – Carboplatin

38.1%

Nhận xét: Không có khác biệt có ý nghĩa về tỉ lệ pCR giữa các nhóm phân theo thời gian nghỉ, liều xạ, phác đồ hóa chất.

4. BÀN LUẬN

Đặc điểm nhóm người bệnh

Nghiên cứu tiến hành trên 35 bệnh nhân, tất cả là nam giới, với độ tuổi trung bình 60,3. . Tỷ lệ hút thuốc (71.4%) và sử dụng rượu (65.7%) cao, phù hợp với đặc điểm dịch tễ ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản (ESCC) tại Việt Nam và thế giới. Về mô bệnh học, ESCC chiếm 94.3% – tương đồng với các báo cáo trước đây, trong đó ESCC có liên quan chặt chẽ đến thuốc lá, rượu bia, chế độ ăn và phổ biến hơn ở khu vực Đông Á, Đông Nam Á (~90%). Ngược lại, ung thư biểu mô tuyến thực quản (EAC)  thường liên quan đến béo phì và trào ngược dạ dày-thực quản (GERD), phổ biến hơn ở các nước phát triển như Bắc Mỹ và Tây Âu [4]. Sự khác biệt về mô bệnh học này cũng liên quan đến đến khác biệt trong tiên lượng, đáp ứng điều trị và chiến lược tiếp cận tối ưu. Trong khi ESCC thường có đáp ứng tốt với hóa xạ trị đồng thời , thì EAC cho thấy đáp ứng tốt với hóa trị chu phẫu phác đồ FLOT (thời gian sống thêm trung vị đạt 66 tháng so với 37 tháng với CROSS trong thử nghiệm ESOPEC gần đây) [5]. Tuy vậy, hóa xạ đồng thời vẫn là lựa chọn khả thi cho bệnh nhân EAC không đủ điều kiện dùng FLOT, với thời gian sống thêm trung vị 43.2 tháng so với 27.1 tháng ở nhóm chỉ phẫu thuật  [1].  

Kết quả điều trị:

Tỉ lệ hoàn thành và độc tính điều trị.

Có 94,2% bệnh nhân hoàn tất hóa xạ trị theo kế hoạch, tương đương với kết quả trong thử nghiệm CROSS (94,7%) [1]. Chỉ có 2 trường hợp (5,7%) phải dừng điều trị do độc tính cấp độ 3. Đa số gặp độc tính cấp độ 1-2; 34.3% (12/35) có độc tính cấp độ 3 (viêm thực quản: 25.7%, hạ bạch cầu trung tính: 17.1%, sốt hạ bạch cầu: 11.4%), không ghi nhận độc tính cấp độ 4. Tỷ lệ hoàn thành điều trị cao và hồ sơ độc tính chấp nhận được cho thấy phác đồ hóa xạ trị đồng thời sử dụng VMAT-DIBH là khả thi và có tính dung nạp tốt trong bối cảnh thực hành tại Việt Nam. Về độc tính muộn, 54.3% bệnh nhân gặp biến chứng nhẹ (độ 1-2), chủ yếu liên quan phẫu thuật (hẹp miệng nối: 23.3%), không có độc tính muộn độ 3-4.

Đáp ứng và sống thêm

Với thời gian theo dõi trung vị là 20,4 tháng, tỷ lệ sống toàn bộ (OS) sau 1, 2 và 3 năm lần lượt là 88,3%, 73,7% và 61,4%. Tỷ lệ sống không tiến bệnh (DFS) và sống không tái phát tại chỗ–vùng (LRPFS) sau 2 năm đạt 64,2% và 69,7%. Những kết quả này tương đương với dữ liệu từ các nghiên cứu CROSS, NEOSCOPE và NEOCRTEC5010, nơi OS sau 2 năm dao động từ 65–78% tùy vào mô học và giai đoạn bệnh [1], [6], [7].

Tỷ lệ đáp ứng bệnh học hoàn toàn (pCR) đạt 46,7%, sát với mức 49% trong nhóm ESCC của thử nghiệm CROSS [1]. Đây cũng là yếu tố tiên lượng rõ rệt nhất cho sống thêm: OS 2 năm ở nhóm pCR đạt 100% so với 52.2% ở nhóm đáp ứng một phần (pPR) (p=0.041); PFS 2 năm lần lượt là 92.9% so với 51.6% (p=0.028). Mối tương quan này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trước đó về hóa xạ trị tiền phẫu [1], [6], [7], [8], [9]. Nhiều nghiên cứu hiện nay đang hướng tới việc nâng cao tỷ lệ pCR nhằm cải thiện kết cục sống còn, thông qua các chiến lược như điều trị hóa chất cảm ứng trước hóa xạ, tăng liều xạ trị tích hợp, hay kết hợp hóa xạ với miễn dịch  [10], [11], [12]. Trong nghiên cứu này, phân tích đơn biến cho thấy pCR có liên quan đến tình trạng hạch vùng (N0 cao hơn, p = 0,049), và có xu hướng tăng ở nhóm nghỉ sau xạ ≥6 tuần hoặc liều xạ ≥50 Gy, dù chưa đạt ngưỡng ý nghĩa thống kê.

Mô hình tái phát

Nghiên cứu ghi nhận 10 trường hợp tiến triển (28.6%), tất cả trong vòng 2 năm đầu, trong đó 7 ca tái phát tại chỗ/vùng. Đáng chú ý, 4/7 ca (57.1%) tái phát trong vùng chiếu xạ, bao gồm 2 trường hợp tại miệng nối thực quản-dạ dày. Điều này có thể được giải thích do gieo rắc tế bào ung thư theo đường phẫu thuật, hoặc vùng vị trí u vi xâm lấn chưa được bao phủ đầy đủ liều. Tỉ lệ này cũng tương đồng với phân tích mở rộng từ nghiên cứu CROSS, trong đó 58% tái phát xảy ra trong trường chiếu, đặc biệt tại các vùng hạch cổ, trên carina và dưới hoành [9].Tỷ lệ tái phát trong vùng chiếu tương đối cao nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cá thể hóa kế hoạch xạ trị – tối ưu thể tích điều trị và liều bức xạ, nhất là với khối u lớn, đa ổ, SUVmax cao, hoặc đáp ứng kém với điều trị.

Vai trò của kết hợp kĩ thuật VMAT- DIBH

Kiểm soát sai số hô hấp bằng DIBH đã được ứng dụng rộng rãi trong xạ trị ung thư thực quản ngực nhờ khả năng cố định thể tích mục tiêu, tăng thể tích phổi, và tách xa tổn thương khỏi cơ quan lành. Các nghiên cứu so sánh về tính liều đã chứng minh DIBH có thể giảm đáng kể liều đến phổi (Dmean, V20Gy), tim(Dmean, D2% và V30%), mạch vành (Dmean, D2%), thất trái (Dmean), và gan (Dmean) cho bệnh nhận xạ trị thực quản tiền phẫu [2], [3].

Kết hợp hai kĩ thuật VMAT-DIBHcàng thể hiện giá trị vượt trội trong bối cảnh các chiến lược điều trị tăng cường đang được nghiên cứu. Kỹ thuật này cho phép tăng liều chọn lọc tại vùng nguy cơ cao hoặc khối u đáp ứng kém mà vẫn đảm bảo an toàn, đồng thời giảm nguy cơ độc tính tích lũy khi kết hợp các phương thức điều trị nội khoa như hóa chất cảm ứng hoặc liệu pháp miễn dịch đồng thời [10], [11], [12].

5. KẾT LUẬN

Hóa xạ trị đồng thời tiền phẫu ung thư thực quản ngực giai đoạn II-IVa có thể phẫu thuật với kĩ thuật VMAT-DIBH là phương pháp điều trị chính xác và hiệu quả, cho kết quả tương đương với các thử nghiệm lâm sàng mẫu (thử nghiệm CROSS), với độc tính điều trị chấp nhận được. Do đó, các cơ sở đạt yêu cầu cho phép về điều kiện trang thiết bị và nhân lực có thể sử dụng DIBH-VMAT như điều trị tiêu chuẩn với nhóm bệnh nhân này.

Hạn chế của nghiên cứu

Nghiên cứu của chúng tôi vẫn còn những hạn chế nhất định. Trước hết, đây là một nghiên cứu đơn trung tâm với cỡ mẫu hạn chế, một số phân tích dưới nhóm không khả thi do số mẫu quá nhỏ, vậy nên những kết luận ở trên cần được củng cố thêm qua dữ liệu của nhiều trung tâm điều trị và các nghiên cứu khác. Ngoài ra thời gian quan theo dõi còn hạn chế, các sự kiến về sống thêm và một số độc tính muộn có thể chưa đủ thời gian xuất hiện.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Eyck B.M., van Lanschot J.J.B., Hulshof M.C.C.M. và cộng sự. (2021). Ten-Year Outcome of Neoadjuvant Chemoradiotherapy Plus Surgery for Esophageal Cancer: The Randomized Controlled CROSS Trial. J Clin Oncol, 39(18), 1995–2004.
  2. Mohamed A.A., Douglas M.N., Bruners P. và cộng sự. (2024). Dosimetric advantages for cardiac substructures in radiotherapy of esophageal cancer in deep-inspiration breath hold. Strahlenther Onkol, 200(7), 624–632.
  3. Gong G., Wang R., Guo Y. và cộng sự. (2013). Reduced lung dose during radiotherapy for thoracic esophageal carcinoma: VMAT combined with active breathing control for moderate DIBH. Radiat Oncol, 8, 291.
  4. Arnold M., Soerjomataram I., Ferlay J. và cộng sự. (2015). Global incidence of oesophageal cancer by histological subtype in 2012. Gut, 64(3), 381–387.
  5. Hoeppner J., Brunner T., Schmoor C. và cộng sự. (2025). Perioperative Chemotherapy or Preoperative Chemoradiotherapy in Esophageal Cancer. N Engl J Med, 392(4), 323–335.
  6. Yang H., Liu H., Chen Y. và cộng sự. (2018). Neoadjuvant Chemoradiotherapy Followed by Surgery Versus Surgery Alone for Locally Advanced Squamous Cell Carcinoma of the Esophagus (NEOCRTEC5010): A Phase III Multicenter, Randomized, Open-Label Clinical Trial. J Clin Oncol, 36(27), 2796–2803.
  7. Mukherjee S., Hurt C.N., Gwynne S. và cộng sự. (2017). NEOSCOPE: A randomised phase II study of induction chemotherapy followed by oxaliplatin/capecitabine or carboplatin/paclitaxel based pre-operative chemoradiation for resectable oesophageal adenocarcinoma. Eur J Cancer, 74, 38–46.
  8. Scheer R.V., Fakiris A.J., và Johnstone P.A.S. (2011). Quantifying the benefit of a pathologic complete response after neoadjuvant chemoradiotherapy in the treatment of esophageal cancer. Int J Radiat Oncol Biol Phys, 80(4), 996–1001.
  9. Oppedijk V., van der Gaast A., van Lanschot J.J.B. và cộng sự. (2014). Patterns of recurrence after surgery alone versus preoperative chemoradiotherapy and surgery in the CROSS trials. J Clin Oncol, 32(5), 385–391.
  10. Zeng M., Aguila F.N., Patel T. và cộng sự. (2016). Intensity modulated radiation therapy with simultaneous integrated boost based dose escalation on neoadjuvant chemoradiation therapy for locally advanced distal esophageal adenocarcinoma. World J Gastrointest Oncol, 8(5), 474–480.
  11. Leng X, He W, Lyu J, và cộng sự (2024). Preliminary results from the multicenter, randomized phase III trial (SCIENCE): Comparing chemotherapy plus sintilimab and chemoradiotherapy plus sintilimab versus chemoradiotherapy for neoadjuvant treatment in resectable locally advanced esophageal squamous cell carcinoma. 2025 ASCO Gastrointestinal Cancers Symposium.
  12. Yoon H.H., Ou F.-S., Soori G.S. và cộng sự. (2021). Induction versus no induction chemotherapy before neoadjuvant chemoradiotherapy and surgery in oesophageal adenocarcinoma: a multicentre randomised phase II trial (NCCTG N0849 [Alliance]). Eur J Cancer, 150, 214–223.

Tác giả: Đoàn Trung Hiệp1, Dương Văn Nghĩa 2, Trần Bá Bách3, Nguyễn Đình Long3, Lê Đức Anh 2

1Chủ tịch CNUB hệ thống Vinmec, Giám đốc TTUB Vinmec Times City kiêm Trưởng khoa Xạ trị –  Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City
2Bác sĩ xạ trị, Khoa xạ trị- Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City
3Kĩ sư xạ trị – Khoa Xạ trị- Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City

facebook
7

Bình luận 0

Đăng ký
Thông báo về
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận

Bài viết cùng chuyên gia