Giám sát tích cực ung thư tuyến giáp nguy cơ thấp
TÓM TẮT
Do tính chất tiến triển chậm của ung thư tuyến giáp dạng nhú nên có rất nhiều nghiên cứu về giám sát tích cực và áp dụng như một phương pháp thay thế phẫu thuật ngay lập tức trong quản lý ung thư tuyến giáp dạng nhú nguy cơ thấp. Giám sát tích cực ung thư tuyến giáp dạng nhú nguy cơ thấp được khuyến cáo cho các u có đường kính nhỏ hơn 1 cm, với mô học là carcinôm tuyến giáp dạng nhú, không lan ra khỏi tuyến giáp, không di căn hạch và không di căn xa. Các tiêu chí chọn lựa đối tượng thích hợp nhất cho giám sát tích cực này là kích thước u, vị trí, tính đa nhân dựa vào siêu âm cùng với một số yếu tố khác tuổi, tiền sử gia đình, bệnh lý kèm theo. Bên cạnh đó còn xem xét thêm về chất lượng cuộc sống, chi phí và hiệu quả của phương pháp. Mặc dù phương pháp giám sát tích cực ung thư tuyến giáp là phương pháp khả thi và hiệu quả trong quản lý ung thư tuyến giáp dạng nhú nguy cơ thấp, nhưng vẫn cần phải chọn lựa bệnh nhân cẩn thận, thống nhất quyết định chọn lựa phương pháp này giữa bệnh nhân và bác sĩ, tuân theo quy trình theo dõi chuẩn bằng siêu âm định kỳ để theo dõi dấu hiệu tiến triển của bệnh.
TỔNG QUAN VỀ UNG THƯ TUYẾN GIÁP
Ung thư tuyến giáp rất phổ biến, với tỷ lệ mắc bệnh toàn cầu là 10,1 /100.000 ở phụ nữ và 3,1 /100.000 ở nam. Tuy nhiên, ung thư tuyến giáp có tiên lượng tốt, với tỷ lệ tử vong chỉ là 0,5/100.000 ở phụ nữ và 0,3/100.000 ở nam. Tỷ lệ mắc ung thư tuyến giáp đã tăng đáng kể vào những năm 1990 và đầu những năm 2000. Sự gia tăng này chủ yếu được cho là do việc phát hiện các khối u tuyến giáp nhỏ không xâm lấn, đặc biệt là do sử dụng siêu âm. (1)
Các nghiên cứu khám nghiệm tử thi cũng đã hỗ trợ phát hiện này, cho thấy rằng ung thư tuyến giáp ẩn chiếm đến 35,6% ở những người tử vong vì các nguyên nhân khác. Do đó, ung thư tuyến giáp đã trở thành tâm điểm của các cuộc tranh luận về việc chẩn đoán quá mức và điều trị quá mức. Theo Globocan 2022, ung thư tuyến giáp đứng hàng thứ 7 và là nguyên nhân gây chết đứng hàng thứ 24, và thống kê ở Việt nam: ung thư giáp đứng hàng thứ 10 chiếm 6122 ca mới và có khoảng 858 ca mất mỗi năm. (2)
ĐẶC ĐIỂM TIẾN TRIỂN CỦA UNG THƯ TUYẾN GIÁP DẠNG NHÚ:
Ung thư tuyến giáp dạng nhú thường tiến triển chậm và theo sáu mô hình tăng trưởng như bảng sau.
Bảng 1: Sáu mô hình tăng trưởng thể tích khối u phổ biến nhất được quan sát ở bệnh nhân giám sát tích cực ung thư tuyến giáp dạng nhú hoặc nghi ngờ ung thư tuyến giáp dạng nhú (3,4)
Mô hình tăng trưởng thể tích khối u | Mô tả chi tiết | Định nghĩa cụ thể | Ý nghĩa đối với quản lý lâm sàng |
I. Ổn định | Trong suốt quá trình theo dõi, thể tích khối u không có sự thay đổi đáng kể, thể tích có thể dao động trong khoảng giảm tới 72% so với giá trị ban đầu. | Thể tích khối u không thay đổi đáng kể trong quá trình theo dõi, không vượt quá 72% so với thể tích ban đầu. | Tiếp tục theo dõi tích cực mà không cần can thiệp ngay lập tức. |
II. Tăng sớm thể tích khối u | Khối u tăng trưởng liên tục theo cấp số nhân ngay từ thời điểm chẩn đoán. Thời gian tăng gấp đôi thể tích khối u ˂ 5 năm. | Khối u có xu hướng tăng nhanh trong vòng 5 năm sau khi được phát hiện. | Cân nhắc 1) Chuyển sang can thiệp điều trị hoặc 2) Tiếp tục theo dõi, tùy thuộc vào kích thước, vị trí khối u, tốc độ tăng trưởng và nguyện vọng của bệnh nhân. |
III. Tăng muộn thể tích khối u | Khối u ban đầu ổn định nhưng sau đó bắt đầu tăng trưởng theo cấp số nhân. Thời gian tăng gấp đôi thể tích của khối u ≥ 5 năm. | Khối u tăng trưởng chậm hơn, chỉ bắt đầu tăng trưởng sau một thời gian ổn định tương đối dài. | Cân nhắc 1) chuyển sang điều trị hoặc 2) tiếp tục theo dõi tùy thuộc vào tình trạng khối u và lựa chọn của bệnh nhân. |
IV. Tăng sớm thể tích khối u sau đó ổn định | Khối u ban đầu tăng trưởng theo cấp số nhân nhưng sau đó dừng lại và trở nên ổn định. Thể tích khối u giảm không vượt quá 72% so với giá trị cao nhất sau giai đoạn tăng trưởng. | Khối u tăng trưởng mạnh lúc đầu nhưng sau đó trở nên ổn định, không tiếp tục phát triển sau giai đoạn tăng trưởng | Tiếp tục theo dõi tích cực mà không cần can thiệp ngay. |
V. Ổn định sau đó tăng thể tích khối u | Khối u ban đầu không thay đổi đáng kể trong một thời gian dài, nhưng sau đó đột ngột chuyển sang tăng trưởng theo cấp số nhân. | Khối u ban đầu ổn định nhưng sau đó tăng trưởng nhanh, đòi hỏi phải can thiệp. | Chuyển sang điều trị do khối u đã bắt đầu phát triển sau một thời gian ổn định. |
VI. Giảm thể tích khối u | Thể tích khối u giảm hơn 72% so với giá trị ban đầu trong quá trình theo dõi. | Khối u giảm kích thước đáng kể so với khi được chẩn đoán ban đầu. | Tiếp tục theo dõi tích cực mà không cần can thiệp. |
Hình 1: Sáu mô hình tăng trưởng thể tích khối u phổ biến nhất được quan sát ở bệnh nhân giám sát tích cực ung thư giáp
CÁC NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI THEO DÕI UNG THƯ TUYẾN GIÁP
Ung thư tuyến giáp dạng nhú nguy cơ thấp là các khối u có kích thước 1 cm hoặc nhỏ hơn, có tiên lượng rất tốt. Tỷ lệ tử vong do ung thư tuyến giáp dạng nhú nguy cơ thấp là dưới 0,1%, và tỷ lệ tái phát là 3%. Một trong những lý do cho những kết quả khả quan này là do tính chất không xâm lấn của ung thư tuyến giáp dạng nhú. Khi theo dõi mà không phẫu thuật ngay lập tức, hầu hết các trường hợp (>80%) vẫn ổn định, không thay đổi kích thước. Dựa trên tính chất không xâm lấn của ung thư tuyến giáp nguy cơ thấp, một chiến lược điều trị gọi là giám sát tích cực thay vì phẫu thuật ngay lập tức, đã xuất hiện. Bệnh viện Kuma ở Nhật Bản đã tiên phong thực hiện một nghiên cứu vào năm 1993, theo dõi các bệnh nhân ung thư tuyến giáp nguy cơ thấp mà không phẫu thuật, cho thấy chỉ có 8% và 3,8% bệnh nhân phát triển khối u và di căn hạch trong thời gian theo dõi 10 năm (5). Sau khi kết quả ban đầu từ Bệnh viện Kuma được công bố vào năm 2003, các hướng dẫn của Nhật Bản năm 2011 đã áp dụng phương pháp giám sát tích cực này cho ung thư tuyến giáp dạng nhú. Do lo ngại về chẩn đoán quá mức và điều trị quá tay, đặc điểm tiến triển chậm của ung thư tuyến giáp và sau các nghiên cứu của Nhật nên đã có nhiều nghiên cứu về giám sát tích cực của ung thư tuyến giáp dạng nhú của nhiều nước trên thế giới đã được tiến hành.
Hình 2. Các hướng dẫn về giám sát tích cực đối với ung thư tuyến giáp
Bảng 2: các hướng dẫn giám sát tích cực ung thư tuyến giáp dạng nhú của các quốc gia khác nhau:
Năm | Hiệp hội | Mức độ chứng cứ/ khuyến cáo | Khuyến cáo |
2011 | JATS và JAES (Nhật Bản) | Được khuyến cáo mặc dù mức độ chứng cứ thấp | Phẫu thuật là bắt buộc đối với bệnh nhân PTMC có di căn hạch trên lâm sàng hoặc hình ảnh, di căn xa, hoặc xâm lấn ngoài tuyến giáp đáng kể. Bệnh nhân không có những đặc điểm này có thể là đối tượng cho giám sát tích cực sau khi giải thích rõ ràng và đồng ý. |
2015 | ATA (Hoa Kỳ) |
| Chẩn đoán tế bào học của ung thư tuyến giáp gần như luôn dẫn đến phẫu thuật. Tuy nhiên, phương pháp giám sát tích cực có thể được xem xét như một lựa chọn thay thế cho phẫu thuật ngay lập tức trong một số trường hợp. |
2016 | KTA (Hàn Quốc) |
| Khi kết quả tế bào học là ác tính, phẫu thuật thường được khuyến cáo. Tuy nhiên, trong một số trường hợp theo dõi, giám sát tích cực có thể được xem xét |
2018 | Sáu hiệp hội Ý (Ý) |
| Mặc dù phẫu thuật là phương pháp điều trị được lựa chọn, giám sát tích cực có thể được xem xét cho PTMC nguy cơ rất thấp trong các trường hợp sau: 1. bệnh nhân có nguy cơ phẫu thuật cao; 2. bệnh nhân từ chối phẫu thuật; 3. bệnh nhân sẵn sàng tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng được kiểm soát. |
2019 | ESMO | Mức độ chứng cứ III, grade B | Giám sát tích cực qua siêu âm cổ và các hạch cổ (mỗi 6–12 tháng) có thể được đề xuất cho PTMC đơn ổ (<10 mm) không có bằng chứng xâm lấn ngoài tuyến giáp hoặc di căn hạch. |
2020 | JAES (Nhật Bản) | Mức độ chứng cứ tốt, khuyến cáo yếu | Giám sát tích cực được khuyến cáo cho bệnh nhân có PTC nguy cơ rất thấp, không có bằng chứng di căn hoặc xâm lấn, trong hệ thống chăm sóc y tế phù hợp với sự đồng thuận của bệnh nhân sau khi đã giải thích đầy đủ về tình trạng bệnh và các lợi ích/rủi ro của phương pháp quản lý. |
2021 | JAES (Nhật Bản) |
| Các ứng viên cho giám sát tích cực là các bệnh nhân lớn tuổi mắc PTMC nguy cơ thấp. |
2021 | JTA (Nhật Bản) |
| Giám sát tích cực được coi là một chiến lược an toàn và có giá trị cho PTMC nếu được chỉ định đúng. Đặc biệt, người lớn tuổi có xác suất tiến triển thấp và được coi là ứng viên tốt cho giám sát tích cực. |
2022 | SFE/AFCE/SFNM (Pháp) | Mức độ chứng cứ ++, Grade A | Các ung thư được xác nhận bằng tế bào học và các nhân giáp EU-TIRADS 5 có kích thước ≤10 mm, không có bằng chứng siêu âm về di căn hạch hoặc xâm lấn ngoài tuyến giáp, cách xa dây thần kinh quặt ngược thanh quản và khí quản, có thể được giám sát tích cực. Bệnh nhân từ ≥ 45 tuổi là ứng viên tốt hơn cho giám sát tích cực so với bệnh nhân trẻ. |
2022 | Các hiệp hội khoa học Ba Lan | Mức độ chứng cứ cao, khuyến cáo mạnh | Đối với chẩn đoán ung thư tuyến giáp dạng nhú giai đoạn cT1aN0M0 đơn ổ <1 cm, phẫu thuật có thể được loại bỏ nếu đó là tổn thương nguy cơ thấp, và bệnh nhân đồng ý với phương pháp quản lý này. |
2022 | SBEM (Brazil) |
| Giám sát tích cực có thể là một lựa chọn ban đầu phù hợp cho các bệnh nhân được chọn, và các tiêu chí để đề xuất phương pháp này được nêu rõ trong bảng tóm tắt. |
2023 | EORTC (EU) |
| Hiện tại, có nhiều phương thức điều trị với kết quả tương đương cho PTMC: 1) cắt thùy tuyến giáp, 2) cắt bỏ tuyến giáp toàn phần, 3) liệu pháp điều trị xâm lấn tối thiểu, và 4) giám sát tích cực. Cần cân nhắc các đặc điểm bệnh nhân và khối u cụ thể cũng như các rủi ro tiềm ẩn của điều trị quá mức trước khi đưa ra lựa chọn điều trị. |
2023 | KTA (Hàn Quốc) |
| Ở các bệnh nhân người lớn được chẩn đoán PTMC thông qua các kết quả tế bào và hình ảnh như siêu âm, giám sát tích cực có thể được xem xét nếu đánh giá xác nhận không có các đặc điểm mô học nguy cơ cao (loại ác tính nhiều), xâm lấn vào các mô xung quanh như khí quản hoặc dây thần kinh, di căn hạch cổ, hoặc di căn xa, từ đó xác định họ là bệnh nhân nguy cơ thấp. |
2023 | ETA (EU) |
| Trong trường hợp các nhân giáp EU-TIRADS 3, 4 và 5 có kích thước 5–10 mm với kết quả FNA được phân loại Bethesda V hoặc VI, giám sát hoặc điều trị xâm lấn tối thiểu có thể được đề xuất như các lựa chọn thay thế nếu không có nghi ngờ di căn hạch hoặc xâm lấn ngoài tuyến giáp. |
2024 | NCCN |
| Chỉ định giám sát ung thư tuyến giáp dạng nhú khi u < 1cm, không có hạch cổ di căn, không có tiền căn gia đình ung thư tuyến giáp, u không nằm ở mặt sau. |
Trong tình hình thực tế trên thế giới cũng như Việt Nam, việc phát hiện sớm ung thư tuyến giáp ngày càng nhiều. Những điều này mang đến lợi ích trong những trường hợp cần thiết điều trị nhưng cũng mang đến không ít hoang mang cho bệnh nhân khi họ biết mình mắc ung thư. Nhưng lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp hoặc giám sát tích cưc cho ung thư tuyến giáp dạng nhú nguy cơ thấp là vấn đề cần phải có sự quyết định thống nhất giữa bệnh nhân và bác sĩ.
Do đó để đưa ra quyết định đó cả bác sĩ và bệnh nhân cần hiểu rõ về giám sát tích cực ung thư tuyến giáp là gì và cần phải tiến hành như thế nào để quản lý tốt bệnh nhân ung thư tuyến giáp nguy cơ thấp? Và quan trọng là khi nào bệnh tiến triển cần can thiệp đúng thời điểm. Đó là vấn đề chúng tôi muốn đề cập đến.
GIÁM SÁT TÍCH CỰC UNG THƯ TUYẾN GIÁP DẠNG NHÚ NGUY CƠ THẤP
Chỉ định:
Với kinh nghiệm ngày càng tăng và các nghiên cứu về giám sát tích cực ung thư tuyến giáp dạng nhú tại Nhật Bản, Brito và cộng sự đã phân loại các đặc điểm của u tuyến giáp thành các nhóm lý tưởng, phù hợp hoặc không phù hợp để cân nhắc và đưa ra quyết định giám sát tích cực ung thư tuyến giáp nguy cơ thấp, chi tiết trong bảng 3 và hình 3.
Bảng 3. Phương pháp phân loại nguy cơ trong việc ra quyết định đối với ung thư tuyến giáp nguy cơ thấp có thể xảy ra hoặc đã được xác định. (5,6)
Đối tượng | Đặc điểm của u/ siêu âm cổ | Đặc điểm của bệnh nhân |
Lý tưởng | Nốt đơn độc ở tuyến giáp | Bệnh nhân lớn tuổi(>60 tuổi) |
Phù hợp | Ung thư tuyến giáp dạng nhú đa ổ | Bệnh nhân trung niên (18–59 tuổi) |
Không phù hợp | Tế bào học là dạng nguy cơ cao | Bệnh nhân trẻ (<18 tuổi) |
Ưu và nhươc điểm của giám sát tích cực:
Ưu điểm:
Tránh được biến chứng phẫu thuật: sẹo, khàn tiếng tạm thời, khoảng 20% bệnh nhân cần hormon giáp thay thế vĩnh viễn sau phẫu thuật do suy giáp. (6)
Giảm được chi phí
Nhươc điểm:
Theo dõi kéo dài vẫn không chắc chắn. Dự đoán bệnh tiến triển là không xác định rõ ràng.
Phẫu thuật có thể cần thiết nếu bệnh tiến triển trong suốt quá trình theo dõi (5-7% trong giai đoạn 5 năm).
Hình 3. Vị trí lý tưởng hoặc phù hợp của khối u để giám sát tích cực
(A) Vị trí lý tưởng của khối u.
(B) Mặc dù các khối u ở mặt sau của tuyến giáp không được xem xét cho theo dõi tích cực, các khối u ở mặt trước có thể được cân nhắc cho theo dõi tích cực ngay cả khi chúng tiếp xúc với (c) hoặc gây phình (b) vỏ tuyến giáp, hoặc nếu có nghi ngờ xâm lấn (i) vào cơ.
(C) Mặc dù các khối u tiếp xúc với khí quản ở góc tù (o) bị loại khỏi theo dõi tích cực , các khối u tiếp xúc với khí quản ở góc nhọn hoặc góc vuông (a, r) có thể được xem xét cho theo dõi tích cực.
(D) Một số hướng dẫn khuyến nghị không nên áp dụng theo dõi tích cực cho các khối u nằm gần khí quản hoặc dây thần kinh thanh quản quặt ngược, và đề xuất theo dõi tích cực phù hợp với các khối u được bao quanh bởi hơn 2 mm mô tuyến giáp bình thường.
Chú giải màu:
- Màu xanh lá cây: Vị trí lý tưởng
- Màu vàng: Chấp nhận được nhưng còn gây tranh cãi
- Màu đỏ: Không phù hợp
QUY TRÌNH THEO DÕI
Trong quá trình giám sát tích cực, cần tiến hành siêu âm cổ định kỳ bởi những chuyên gia giàu kinh nghiệm để theo dõi sự phát triển của u hoặc di căn hạch.
Quy trình theo dõi ung thư tuyến giáp dạng nhú theo nhiều hướng dẫn khác nhau, khuyến cáo khoảng thời gian cụ thể cho các lần kiểm tra siêu âm, chi tiết trong Bảng 4.
Bảng 4. Thời gian cho các lần siêu âm cho các trường hợp giám sát tích cực:
Hiệp hội | Đánh giá siêu âm |
Sáu hiệp hội Ý 2018 | Mỗi 6 tháng trong 2 năm đầu và 1 lần mỗi năm sau đó |
ESMO (2019) | Mỗi 6–12 tháng |
JAES (2020) | Một hoặc hai lần mỗi năm |
JAES (2021) | Mỗi 6 tháng trong 1–2 năm đầu tiên và 1 lần mỗi năm sau đó |
SFE/AFCE/SFNM (2022) | Mỗi 6 tháng trong năm đầu tiên và 1 lần mỗi năm cho đến hết năm thứ 5, sau đó là vào năm thứ 7, và mỗi 2–3 năm sau đó (mức độ bằng chứng ++, grade B) |
Các Hiệp hội Khoa học Ba Lan (2022) | Mỗi 6 tháng trong 2 năm đầu và 1 lần mỗi năm sau đó (bằng chứng chất lượng thấp, khuyến cáo thấp) |
SBEM (2022) | Mỗi 6 tháng trong 2 năm đầu và 1 lần mỗi năm sau đó |
NCCN 2024 | Mỗi 6 tháng trong 2 năm đầu và mỗi lần 1 năm sau đó |
ĐỊNH NGHĨA SỰ TIẾN TRIỂN CỦA BỆNH
Giám sát tích cực ung thư tuyến giáp nguy cơ thấp, bác sĩ cần phải biết về sự tiến triển của khối u giúp cho bác sĩ đưa ra quyết định điều trị vào đúng thời điểm. Tuy nhiên, định nghĩa về sự tiến triển của bệnh trong quá trình giám sát tích cực vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Thông thường, sự tiến triển của bệnh được xác định dựa trên sự phát triển của u, xâm lấn ngoài tuyến giáp lâm sàng, di căn hạch, hoặc di căn xa.
Tuy nhiên, định nghĩa về sự phát triển u rất khác nhau. Tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất là sự tăng kích thước đường kính khối u ≥3 mm, được đề xuất bởi Ito và cộng sự(7). Một nghiên cứu khác tại Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering Hoa Kỳ đã định nghĩa sự phát triển khối u là sự tăng kích thước ≥3 mm ở đường kính lớn nhất hoặc tăng thể tích khối u ≥50% so với ban đầu. Nghiên cứu tại Trung tâm Y tế Cedars-Sinai Hoa Kỳ định nghĩa sự phát triển của khối u là sự tăng ≥5 mm ở đường kính hoặc tăng thể tích ≥100%. Trong một nghiên cứu đa trung tâm tại Hàn Quốc, sự phát triển của khối u được định nghĩa là sự tăng kích thước ≥3 mm ở ít nhất một chiều, hoặc ≥2 mm ở ít nhất hai chiều. (8)
Định nghĩa về sự phát triển của khối u cũng khác nhau giữa các hướng dẫn đã được công bố, tóm tắt trong Bảng 5.
Bảng 5: Định nghĩa sự phát triển của khối u và các chỉ định phẫu thuật
Hiệp hội | Định nghĩa sự phát triển của khối u | Chỉ định phẫu thuật liên quan đến kích thước khối u |
JTA (2021) | Tăng đường kính khối u ≥3 mm | Tương tự* |
JAES (2021) | Tăng đường kính khối u ≥3 mm | Đường kính khối u ≥13 mm |
Hiệp hội Khoa học Ba Lan (2022) | Tăng đường kính khối u ≥3 mm | Tương tự* |
SBEM (2022) | Tăng đường kính khối u >3 mm | Tăng đường kính khối u >3 mm |
NCCN (2024) | Tăng đường kính khối u > 3 mm hoặc hơn 50 % thể tích | Tương tự * |
* Chỉ định phẫu thuật liên quan đến kích thước khối u tương tự như định nghĩa sự phát triển của khối u.
KẾT LUẬN
Trong thập kỷ qua, đã có sự thay đổi lớn trong cách tiếp cận điều trị ung thư tuyến giáp nguy cơ thấp với sự ra đời của giám sát tích cực như một lựa chọn điều trị mới. Mặc dù giám sát tích cực ung thư tuyến giáp nguy cơ thấp là một lựa chọn khả thi và đáng tin cậy để quản lý ung thư tuyến giáp nguy cơ thấp, nhưng nó có thể mang theo nguy cơ tiến triển bệnh. Do đó, việc lựa chọn bệnh nhân cẩn thận và thực hiện và theo dõi đúng cách, chọn lựa thời điểm điều trị là rất quan trọng.
Trọng tâm của phương pháp này là xác định những ứng viên lý tưởng hoặc phù hợp cho theo dõi tích cực, dựa trên các đặc điểm bướu như kích thước, vị trí, số lượng phát hiện qua siêu âm, cũng như các yếu tố liên quan đến bệnh nhân như tình trạng y tế, tuổi tác và tiền sử gia đình. Ngoài ra, các vấn đề cần quan tâm ở bệnh nhân như chất lượng cuộc sống và hiệu quả chi phí cũng cần được xem xét. Điều quan trọng là phải thảo luận các yếu tố này với bệnh nhân để giúp họ đưa ra quyết định chung, có sự hiểu biết và đồng thuận.
Đối với các bệnh nhân chọn giám sát tích cực, việc thiết lập các quy trình theo dõi tiêu chuẩn và định nghĩa rõ ràng về sự tiến triển của bệnh là cần thiết để theo dõi hiệu quả. Hơn nữa, nghiên cứu tiếp tục để tìm ra các dấu hiệu có thể dự đoán sự tiến triển của bệnh là rất quan trọng để cải thiện hiệu quả và an toàn của giám sát tích cực trong quản lý ung thư tuyến giáp nguy cơ thấp.
Tài liệu tham khảo:
- Pizzato M, Li M, Vignat J, Laversanne M, Singh D, La Vec chia C, et al. The epidemiological landscape of thyroid cancer worldwide: GLOBOCAN estimates for incidence and mortality rates in 2020. Lancet Diabetes Endocrinol 2022; 10:264-72.
- Freddie Bray, Mathieu Laversanne, Hyuna Sung, Jacques Ferlay , Rebecca L Siegel, Isabelle Soerjomataram, Ahmedin Jemal.Global cancer statistics 2022: Globocan estimates of incidence and mortality worldwide for 36 cancers in 185 countries.
- Tuttle RM, Fagin JA, Minkowitz G, et al. Natural history and tumor volume kinetics of papillary thyroid cancers during active surveillance. JAMA Otolaryngol Head Neck Surg 2017;143(10):1015–1020; doi: 10.1001/jamaoto.2017 .1442
- Miyauchi A, Ito Y, Fujishima M, Miya A, Onoda N, Kihara M, et al. Long-term outcomes of active surveillance and immediate surgery for adult patients with low-risk papillary thyroid microcarcinoma: 30-year experience. Thyroid 2023; 33:817-25.
- Rosato L, Avenia N, Bernante P, De Palma M, Gulino G, Nasi PG, et al. Complications of thyroid surgery: analysis of a multicentric study on 14,934 patients operated on in Italy over 5 years. World J Surg. 2004;28(3):271-6. doi: 10.1007/s00268-003-6903-1.
- Brito JP, Ito Y, Miyauchi A, Tuttle RM. A Clinical Framework to Facilitate Risk Stratification When Considering an Active Surveillance Alternative to Immediate Biopsy and Surgery in Papillary Microcarcinoma. Thyroid. 2016;26(1):144-9. doi: 10.1089/thy.2015.0178
- Ito Y, Miyauchi A. A therapeutic strategy for incidentally detected papillary microcarcinoma of the thyroid. Nat Clin Pract Endocrinol Metab 2007; 3:240-8.
- Horiguchi K, Yoshida Y, Iwaku K, Emoto N, Kasahara T, Sato J, et al. Position paper from the Japan Thyroid Associa tion task force on the management of low-risk papillary thy roid microcarcinoma (T1aN0M0) in adults. Endocr J 2021; 68:763-80.
Tác giả: NÔNG NGỌC SƠN, PHAN THỊ HỒNG ĐÁNG, ĐOÀN THÁI CANG, NGUYỄN THỊ NGỌC, NGUYỄN XUÂN THẮNG, NGUYỄN TRƯƠNG ĐỨC HOÀNG, ĐỖ TƯỜNG HUÂN, TÔ KIM SANG, BÙI HUỲNH QUANG MINH