MỚI

Ứng dụng lâm sàng của chỉ số nguy cơ đa gen (polygenic risk scores): Ý kiến từ ACMG

Ngày xuất bản: 02/06/2023
icon-toc-mobile

Di truyền đa gen là phương thức di truyền không tuân theo quy luật Mendel, trong đó sự biểu hiện của tính trạng hoặc bệnh lý bị kiểm soát bởi nhiều gen. Hầu hết các bệnh mãn tính và các rối loạn phức tạp đều có nguyên nhân đa yếu tố bao gồm yếu tố di truyền đa gen và yếu tố môi trường. Nghiên cứu mối tương quan toàn bộ hệ gen (GWAS) được sử dụng để đánh giá mối liên hệ giữa các locus cụ thể với các rối loạn phức tạp khác nhau. Chỉ số nguy cơ đa gen (PRS) được tính từ dữ liệu GWAS dựa trên số lượng các đa hình đơn gen (SNP) và mối tương quan của chúng tới kiểu hình. Các thuật toán để tính chỉ số PRS đã được phát triển, thẩm định và công bố cho nhiều bệnh lý, đặc điểm di truyền khác nhau. Điểm hạn chế của PRS là dữ liệu để tính toán chủ yếu là của người châu Âu. Điều này dẫn đến những nghi ngại về độ chính xác khi ứng dụng PRS cho các cộng đồng người khác. 

Mặc dù PRS nhanh chóng được đưa vào ứng dụng lâm sàng và chăm sóc sức khỏe, nhưng cho đến hiện tại vẫn chưa có hướng dẫn lâm sàng cụ thể cho việc sử dụng công nghệ này. PRS là chỉ số xác suất và không trực tiếp cung cấp thông tin nguy cơ tuyệt đối cho sự tiến triển của bệnh. Thay vào đó, PRS chỉ ra nguy cơ tương đối tiến triển bệnh và nên được sử dụng như một công cụ hỗ trợ để xác định khả năng phát triển một rối loạn cụ thể. Các nghiên cứu tiếp theo là cần thiết để xác định xem kết quả PRS nhất định khi mà kết hợp với một biện pháp phòng ngừa cụ thể có dẫn đến kết quả lâm sàng tốt hơn hay không.

1. Xét nghiệm PRS không cung cấp kết quả chẩn đoán mà thay vào đó cung cấp một dự đoán thống kê về tăng nguy cơ lâm sàng

Cá nhân có dự đoán nguy cơ mắc bệnh cao bởi PRS có thể không bao giờ phát triển bệnh . Tương tự như vậy, cá nhân có chỉ số PRS thấp vẫn có thể phát triển bệnh. Chính vì vậy, PRS không thể được sử dụng độc lập để đưa ra kết luận chẩn đoán mà cần phải lưu ý đến những bối cảnh lâm sàng cụ thể của từng cá nhân (ví dụ: tuổi, tiền sử bệnh tật gia đình, và các dữ liệu lâm sàng khác) cũng như hiểu biết về những hạn chế của xét nghiệm.

2. Chỉ số PRS thấp không loại trừ nguy cơ tiến triển bệnh

Chỉ số PRS thấp có thể hiểu là nguy cơ thấp phát triển bệnh so với quần thể tham chiếu và không thể hiện nguy cơ tuyệt đối của bệnh.

3. Nếu dự đoán rủi ro của PRS được tính từ quần thể khác với bệnh nhân được xét nghiệm, thì kết quả PRS có thể có giá trị dự đoán kém cho bệnh nhân

Một trong những thách thức quan trọng nhất của việc sử dụng rộng rãi PRS đó là làm sao để tối ưu hoá nguồn dữ liệu thích hợp cho từng nhóm chủng tộc bao gồm cả nhóm chủng tộc hỗn hợp. Mô hình PRS dựa trên các nghiên cứu GWAS trên các quần thể cụ thể. Hầu hết các nghiên cứu GWAS được tiến hành trên quần thể người châu Âu, điều này dẫn đến độ chính xác của giá trị PRS đối với cá nhân có nguồn gốc khác giảm do khác biệt mô hình LD và tần số allele.

4. Xét nghiệm PRS không phù hợp với các bệnh lý/tính trạng đơn gen hoặc nghi ngờ đơn gen

Nếu một đặc điểm lâm sàng của cá nhân và/hoặc tiền sử gia đình phù hợp với mô hình di truyền đơn gen thì các xét nghiệm đơn gen nên được sử dụng thay vì PRS. 

5. Trước khi xét nghiệm, bệnh nhân và đơn vị cung cấp xét nghiệm nên thảo luận về chỉ định xét nghiệm PRS. Bệnh nhân nên được giải thích về ý nghĩ của xét nghiệm

Tư vấn di truyền rất quan trọng trước khi làm xét nghiệm PRS. Tư vấn di truyền cần làm rõ những khác biệt quan trọng giữa xét nghiệm bất thường đơn gen và đa gen. Độ chính xác của xét nghiệm PRS vẫn cần được kiểm chứng. Hơn nữa kết quả PRS không thể dùng để dự đoán nguy cơ mắc bệnh của các thành viên khác trong gia đình.

6. Quản lý y tế dựa trên PRS cần có bằng chứng. Tuy nhiên hiện tại bằng chứng ủng hộ việc sử dụng PRS trong lâm sàng còn hạn chế

Các bằng chứng trực tiếp về lợi ích của PRS đối với lâm sàng vẫn còn hạn chế. Hơn nữa thiếu các nghiên cứu hiệu quả để đánh giá PRS. Hiện tại vẫn chưa có hướng dẫn lâm sàng cho việc sử dụng PRS. 

7. Theo dõi lâm sàng cho PRS nên phù hợp với các thực hành lâm sàng bởi các tổ chức chuyên nghiệp có chuyên môn phù hợp

Ngày càng nhiều nghiên cứu được tiến hành để đánh giá các chiến lược can thiệp tiềm năng, khuyến cáo sàng lọc, tiên lượng và các khía cạnh khác. Việc đánh giá những bệnh nhân được xét nghiệm PRS hoặc xác định sự có mặt/ vắng mặt của một tính trạng hay các khía cạnh khác cần phù hợp với các hướng dẫn thực hành lâm sàng bởi các tổ chức chuyên nghiệp.

8. Quan điểm của ACMG đó là PRS cho giai đoạn tiền làm tổ chưa phù hợp để sử dụng trong lâm sàng và không nên cung cấp ở thời điểm hiện tại 

Do sự phức tạp của xét nghiệm PRS, tổ chức ACMG nhận định xét nghiệm di truyền trước chuyển phôi cho các bệnh lý đa gen không phù hợp để sử dụng trong lâm sàng và không nên cung cấp trực tiếp đến khách hàng tại thời điểm này.

facebook
82

Bình luận0

Đăng ký
Thông báo về
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận

Bài viết cùng chuyên gia