Truyền tế bào đơn nhân tủy xương tự thân điều trị xơ gan sau phẫu thuật Kasai ở trẻ bị tắc mật
Tế bào đơn nhân tủy xương là tập hợp các tế bào không đồng nhất, bao gồm các tế bào dòng tủy, tế bào dòng lympho và là nguồn chứa các tế bào gốc như tế bào gốc tạo máu và tế bào gốc trung mô. Thông qua nghiên cứu, chúng tôi truyền tế bào đơn nhân tủy xương tự thân điều trị xơ gan sau phẫu thuật Kasai ở trẻ bị tắc mật.
Nhóm Tác giả: Thanh Liem Nguyen 1 2 3, Hoang Phuong Nguyen 4, Duy Minh Ngo 5, Thu Hien Thi Ha 5, Kieu-Anh Mai 5, Phan Van Nguyen 5, Lan Huong Pham 5, Duc Minh Hoang 4, Anh Dao Thi Cao 5
Đơn vị công tác:
- Viện Nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ Gen Vinmec, 458 Minh Khai, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam.
- Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City, 458 Minh Khai, Hà Nội, Việt Nam.
- Khoa Khoa học Sức khỏe, VinUniversity, Hà Nội, Việt Nam
Tổng quan
Mục đích: Đánh giá tính an toàn và kết quả ban đầu của truyền tế bào đơn nhân tủy xương tự thân (BMMNC) trong điều trị xơ gan do hẹp đường mật (BA) sau phẫu thuật Kasai.
Phương pháp: Một thử nghiệm lâm sàng nhãn mở đã được thực hiện từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 12 năm 2019. Mười chín trẻ em bị xơ gan do BA sau phẫu thuật Kasai đã được đưa vào. Tủy xương được thu hoạch thông qua chọc dò mào chậu trước dưới gây mê toàn thân. Các tế bào đơn nhân (MNC) được phân lập bằng cách ly tâm gradient Ficoll và sau đó được truyền vào động mạch gan. Quy trình tương tự được lặp lại 6 tháng sau đó. Bilirubin huyết thanh, albumin, alanine aminotransferase, aspartate aminotransferase, gamma-glutamyl transferase và thời gian prothrombin được theo dõi vào lúc ban đầu, 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng sau ca ghép đầu tiên. Nội soi thực quản và sinh thiết gan được thực hiện ở những bệnh nhân có cha mẹ đồng ý. Phân tích tác động hỗn hợp được sử dụng để đánh giá những thay đổi về điểm số Bệnh gan giai đoạn cuối ở trẻ em (PELD).
Kết quả: Số lượng tế bào MNC và CD34+ trung bình trên mỗi kg trọng lượng cơ thể là 50,1 ± 58,5 × 106/kg và 3,5 ± 2,8 × 106 đối với lần cấy ghép đầu tiên và 57,1 ± 42,0 × 106/kg và 3,7 ± 2,7 × 106 đối với lần cấy ghép thứ hai. Không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào liên quan đến liệu pháp tế bào được quan sát thấy ở bệnh nhân. Một bệnh nhân tử vong sau 5 tháng kể từ lần truyền đầu tiên tại bệnh viện tuyến tỉnh do vỡ giãn tĩnh mạch thực quản, trong khi 18 bệnh nhân sống sót. Chức năng gan được duy trì hoặc cải thiện sau khi truyền, được đánh giá bằng các xét nghiệm sinh hóa. Mức độ nghiêm trọng của bệnh giảm rõ rệt, với điểm số PELD giảm đáng kể.
Kết luận: Dùng BMMNC tự thân điều trị xơ gan do BA là an toàn và có thể duy trì hoặc cải thiện chức năng gan.
PMID: 35287722 PMCID: PMC8919575 DOI: 10.1186/s13287-022-02762-x
Keywords: Biliary atresia; Bone marrow mononuclear cell infusion; Kasai operation.
Để đọc chi tiết bài nghiên cứu, vui lòng truy cập Tại đây
Nguồn tra cứu: Theo https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov