MỚI

Tiếp cận chẩn đoán và phân loại giật cơ

Ngày xuất bản: 28/05/2023

Giật cơ (myoclonus) là dấu hiệu lâm sàng đặc trưng bởi những cử động không chủ ý nhanh, ngắn do sự co cơ hoặc ức chế co cơ. Co cơ gây ra giật cơ dương tính, trong khi ức chế co cơ gây ra giật cơ âm tính (run vẫy). Bệnh nhân thường mô tả giật cơ là “giật”, “lắc” hoặc “co thắt”. Giật cơ được phân loại dựa trên biểu hiện lâm sàng, kết quả thăm khám và khảo sát điện sinh lý thần kinh lâm sàng và nguyên nhân.

Bệnh nhân thường mô tả giật cơ là “giật”, “lắc” hoặc “co thắt”.

Bệnh nhân thường mô tả giật cơ là “giật”, “lắc” hoặc “co thắt”.

1. Dịch tễ học giật cơ

Trạng thái sau thiếu oxy não, bệnh thoái hóa thần kinh và các hội chứng động kinh là các nguyên nhân thường gặp nhất gây giật cơ. Độc chất – chuyển hóa và thuốc là các nguyên nhân rất thường gặp trong môi trường bệnh viện.

2. Phân loại giật cơ theo lâm sàng và nguyên nhân

Theo Marsden và cộng sự, giật cơ được chia làm 4 nhóm nguyên nhân chính:
– Sinh lý
– Vô căn
– Động kinh
– Thứ phát (triệu chứng)

2.1. Giật cơ sinh lý

Giật cơ sinh lý là hiện tượng bình thường ở người khỏe mạnh, không gây ảnh hưởng chức năng hoặc ảnh hưởng chức năng nhẹ, thăm khám lâm sàng thường không có bất thường.
Ví dụ thường gặp nhất là giật cơ lúc ngủ hoặc lúc sắp ngủ.

2.2. Giật cơ vô căn

Trong giật cơ vô căn, giật cơ là biểu hiện lâm sàng nổi bật nhất hoặc là duy nhất. Bệnh nhân thường có ảnh hưởng chức năng nhẹ. Bệnh không tiến triển hoặc tiến triển chậm. Nhận thức không bị ảnh hưởng.
Giật cơ vô căn được chia thành 2 nhóm: giật cơ lẻ tẻ và giật cơ di truyền.

2.3. Giật cơ lẻ tẻ: giật cơ khẩu cái

Giật cơ khẩu cái thường gặp nhất là thứ phát do tổn thường thân não và/hoặc tiểu não.
Tuy nhiên, một số bệnh nhân không có tổn thương cấu trúc rõ ràng và được xem là giật cơ khẩu cái vô căn. Trong những trường hợp đó, giật cơ thường do co cơ căng màn khẩu cái. Ngược lại, giật cơ khẩu cái thứ phát (triệu chứng) thường do co cơ nâng màn khẩu cái. Giật cơ tai giữa có thể là vô căn hoặc thứ phát và đặc trưng bởi sự co cơ căng màn nhĩ và/hoặc cơ bàn đạp. Những trường hợp này sẽ gây ra ù tai hoặc tiếng click trong tai.

2.4. Giật cơ vô căn di truyền

Giật cơ vô căn di truyền có những đặc điểm lâm sàng sau:
– Khởi phát trước 20 tuổi
– Di truyền trội nhiễm sắc thể thường với độ biểu hiện đa dạng
– Diễn tiến lành tính với tuổi thọ bình thường
– Không có thất điều tiểu não, co cứng cơ, sa sút trí tuệ và cơn động kinh
Giật cơ thường xảy ra ở hai chi trên và cơ thân trục, nặng lên khi vận động cơ và giảm đi rõ rệt khi uống rượu. Giật cơ vô căn di truyền có nguồn gốc dưới vỏ-không khoanh đoạn (subcortical-nonsegmental).
Loạn trương lực cơ là đặc điểm thường thấy trong giật cơ vô căn di truyền và khi xuất hiện cùng lúc, tình trạng này được gọi là hội chứng giật cơ-loạn trương lực cơ. Ngoài giật cơ, hội chứng này còn biểu hiện loạn trương lực cơ với mức độ khác nhau, nhưng thường là nhẹ, thường hiện diện ở cổ và/hoặc chi.

>>> Xem thêm: Các phương pháp khảo sát giật cơ trên lâm sàng

2.5. Giật cơ động kinh

Giật cơ động kinh ám chỉ sự hiện diện của giật cơ trong bối cảnh bệnh động kinh. Các cơn động kinh là biểu hiện lâm sàng nổi bật trong giật cơ động kinh. Nguyên nhân có thể vô căn, do gen hoặc bệnh não tĩnh trạng.
Giật cơ có thể xảy ra như là một trong các thành phần của cơn động kinh, hoặc biểu hiện duy nhất của cơn động kinh (cơn động kinh giật cơ) hoặc là một trong các loại cơn động kinh của một hội chứng động kinh nhất định. Các loại giật cơ động kinh khác nhau có thể có nguồn gốc sinh lý vỏ não hoặc vỏ não-dưới vỏ.

2.4. Giật cơ nguyên phát

Giật cơ đơn độc gặp trong giật cơ tiến triển nguyên phát của tuổi già và giật cơ vỏ não gia đình.

2.5. Giật cơ triệu chứng

Giật cơ xảy ra do rối loạn thần kinh hoặc không phải do thần kinh, được gọi là giật cơ triệu chứng.
Giật cơ triệu chứng có thể xảy ra bất cứ bệnh thần kinh nào. Các nhóm chính bao gồm:
– Do thuốc, do độc chất
– Bệnh não, bao gồm bệnh não do thiếu oxy
– Bệnh thoái hóa thần kinh
– Tổn thương khu trú hệ thần kinh trung ương
– Động kinh giật cơ tiến triển
– Thất điều giật cơ tiến triển
– Nhiễm trùng và hậu nhiễm
– Viêm tự miễn, bao gồm hội chứng opsoclonus-myoclonus
– Rối loạn chuyển hóa.
– Rối loạn ảnh hưởng nhiều cơ quan, bao gồm các bệnh ti thể.
– Bệnh do rối loạn dự trữ.
– Hội chứng giật mình quá mức (exaggerated startle syndrome).
– Giật cơ do tâm lý.

3. Phân loại giật cơ dựa theo sinh lý và giải phẫu 

Ngoài phân loại dựa trên lâm sàng và nguyên nhân, giật cơ còn có thể phân loại dựa trên vị trí của cơ chế sinh lý gây ra giật cơ. Những vị trí sinh lý – giải phẫu bao gồm:
– Vỏ não
– Vỏ não – dưới vỏ
– Dưới vỏ – không khoanh đoạn
– Khoanh đoạn (segmental)
– Ngoại biên
Sơ đồ phân loại này có thể giúp xác định vị trí tổn thương, hỗ trợ chẩn đoán một số nguyên nhân giật cơ và hướng dẫn lựa chọn điều trị cho một số loại giật cơ. Cách phân loại này sẽ được hướng dẫn trong bài “Phân loại giật cơ dựa theo sinh lý và giải phẫu”

Tóm lại, động kinh rung giật cơ là một sự co cơ ngắn có cảm giác như giật, có thể khác nhau về mức độ nghiêm trọng và sự phân bố. Giật cơ có thể là sinh lý (ví dụ, nấc, giật cơ liên quan đến giấc ngủ) hoặc thứ phát sau các bệnh lý não, bệnh lý hệ thống, hoặc thuốc. Nếu nguyên nhân là rối loạn chuyển hóa, cần điều trị bệnh lý căn nguyên, sử dụng các thuốc để làm giảm triệu chứng (ví dụ clonazepam, valproate, levetiracetam).

Nguồn: Hội thần kinh học Việt Nam

facebook
23

Bài viết liên quan

Bình luận0

Đăng ký
Thông báo về
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận

Bài viết cùng chuyên gia