Một số yếu tố liên quan đến kết quả cấp cứu ngừng tuần hoàn ở trẻ em
Thời gian cấp cứu ngừng tuần hoàn, sử dụng Adrenalin Tĩnh mạch là những yếu liên quan đến hiệu quả cấp cứu ngừng tuần hoàn ở trẻ em. Nghiên cứu được thực hiện bởi nhóm bác sĩ Bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 6/2018 đến tháng 6/2019.
Tác giả: Ngô Anh Vinh, Lại Thuỳ Thanh; Bệnh viện Nhi Trung Ương
Tóm tắt
Mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kết quả cấp cứu ngừng tuần hoàn ở trẻ em.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 102 trẻ ngừng tuần hoàn tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 6/2018 đến tháng 6/2019.
Kết quả:Tỷ lệ cấp cứu thành công(có tim trở lại) nhóm đã được mắc monitor theo dõi cao hơn so với nhóm chưa được mắc monitor (70,1% và 33,3%), (p<0,05). Tỷ lệ cấp cứu thành công ở nhóm chưa được sử dụng thuốc vận mạch cao hơn so với nhóm đã dùng thuốc vận mạch (67,7% và 61,5%) và nhóm đã được đặt nội khí quản cao hơn so với nhóm chưa đặt nội khí quản (65,6%và 63,2%) nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Tỉ lệ tử vong cao nhất ở nhóm nhịp chậm (91,7%) và thấp nhất ở nhóm vô tâm thu(52,3%), (p<0,05). Tỉ lệ sống khi ra viện ở nhóm tiêm Adrenalin tĩnh mạch ≤3 liều cao hơn so với tiêm Adrenalin tĩnh mạch >3 liều (100% và 46,3%). Tỉ lệ sống ra viện cao nhất ở nhóm cấp cứu ngừng tuần hoàn ≤10 phút và thấp nhất ở nhóm cấp cứu >30 phút, (p<0,05). Khi phân tích đa biến, sử dụng Adrenalin tĩnh mạch và thời gian cấp cứu ngừng tuần hoàn là các yếu tố liên quan đến hiệu quả cấp cứu ngừng tuần hoàn (p<0,05).
Kết luận: Thời gian cấp cứu ngừng tuần hoàn, sử dụng Adrenalin Tĩnh mạch là những yếu liên quan đến hiệu quả cấp cứu ngừng tuần hoàn.
Từ khoá: yếu tố liên quan, kết quả cấp cứu, ngừng tuần hoàn, trẻ em
Chịu trách nhiệm chính: Ngô Anh Vinh
Email: vinhinc@yahoo.com
Ngày nhận bài: 20.5.2022
Ngày phản biện khoa học: 1.7.2022
Ngày duyệt bài: 12.7.2022
Nguồn: Tạp chí Y học Việt Nam
- Đặt vấn đề
Ngừng Tuần hoàn (NTH) là tình trạng ngừng hoạt động của cơ tim, được xác định bằng cách không sờ thấy mạch trung tâm, mất ý thức đột ngột và ngừng thở. Bao Gồm: ngừng tuần hoàn nội viện nếu xảy ra tại bệnh viện hoặc ngừng tuần hoàn ngoại bệnh viện nếu xảy ra ở cộng đồng. Khác Với Người Lớn, ngừng tuần hoàn ở trẻ em thường là hậu quả cuối cùng của suy hô hấp hoặc suy tuần hoàn.
Ngừng tuần hoàn ở trẻ em vẫn có tỉ lệ tử vong cao và để lại những di chứng thần kinh nặng nề. Theo Jesús López-Herce,trong cấp cứu ngừng tuần hoàn ở trẻ em, tỉ lệ có tim trở lại chiếm 74%và chỉ 41% trong số đó sống sót sau khi ra viện [1]. Đối với ngừng tuần hoàn nội viện, theo Tress EE và cộng sự, tỷ lệ tử vong chiếm trên 75%và di chứng về thần kinh chiếm một phần ba trong những trẻ sống sót [2]. Trong Đó, đối với ngừng tuần hoàn ngoại viện, tỷ lệ sống sót là chỉ 6,4%[3].Vì thế, ngừng tuần hoàn đòi hỏi phải tiến hành xử trí khẩn cấp, trong đó hồi sức tim phổi (CPR) là phương pháp xử trí quan trọng hàng đầu, bao gồm kiểm soát đường thở, thông khí hỗ trợ và ép tim nhằm cung cấp oxy cho các cơ quan quan trọng như: tim, não và phổi [1]. Hiện nay hiệu quả cấp cứu ngừng tuần hoàn đã được cải thiện trong những thập kỷ qua do sự phát triển của công nghệ, kỹ thuật cũng như sự cập nhật về các quy trình cấp cứu nhi khoa [4]. Mặc dù vậy,ngừng tuần hoàn ở trẻ em vẫn để lại những hậu quả nặng nề. Vì thế, ngoài nắm vững quy trình xử trí cấp cứu ngừng tuần hoàn, việc tìm hiểu các yếu tố liên quan là rất quan trọng để phát triển các chiến lược nhằm cải thiện hiệu quả điều trị, tăng khả năng sống sót và hạn chế di chứng ở trẻ em. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kết quả cấp cứu ngừng tuần hoàn ở trẻ em”.
- Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân.
Các trẻ được xác định ngừng tuần hoàn ngoại viện hoặc nội viện và được xử trí cấp cứu ngừng tuần hoàn theo hướng dẫn của Hiệp hội hồi sức cấp cứu Châu Âu 2015[5]. Chẩn đoán ngừng tuần hoàn dựa theo hiệp hội hồi sức cấp cứu Châu Âu 2015 bao gồm:
- Không bắt được mạch trung tâm
- Mất ý thức đột ngột
- Ngừng thở
1.2. Tiêu Chuẩn loại trừ.
Trẻ dưới 1 tháng tuổi
- Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: thực hiện từ tháng 6/2018 – tháng 6/2019
- Địa điểm: Các khoa hồi sức (hồi sức cấp cứu, hồi sức tim mạch, hồi sức ngoại), khoa cấp cứu và các khoa lâm sàng khác – Bệnh viện Nhi Trung ương.
- Phương pháp nghiên cứu
3.1. Thiết kế nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, chọn mẫu thuận tiện.
3.2. Các bước tiến hành nghiên cứu. Bệnh nhân nhập viện và được xác định có tình trạng ngừng tuần hoàn và được cấp cứu ngừng tuần hoàn. Chúng tôi thu thập thông tin về các yếu tố liên quan đến kết quả cấp cứu ngừng tuần hoàn. Đánh giá kết quả cấp cứu ngừng tuần hoàn bao gồm:
- Kết quả cấp cứu ban đầu được đánh giá ngay tại thời điểm cấp cứu:
+) Thành công: có tim trở lại
+) Thất bại: không có tim trở lại (tử vong)
- Kết quả cấp cứu cuối cùng:
+) Sống ra viện: bệnh nhân sống và được ra viện
+) Tử vong: bệnh nhân được xác nhận tử vong tại bệnh viện
Công cụ thu thập thông tin: thông tin nghiên cứu được thu thập bằng bệnh án nghiên cứu được thiết kế sẵn.
- Xử lý số liệu
Nhập và phân tích số liệu bằng SPSS 23.0. Các biến định tính được trình bày dưới dạng tần suất hoặc tỷ lệ.Sử dụng test thống kê khi bình phương khi so sánh các tỉ lệ.
- Đạo đức trong nghiên cứu.
Nghiên cứu không ảnh hưởng đến kết quả điều trị bệnh nhân và các thông tin cá nhân đảm bảo tính chính xác, được giữ bí mật.
III. Kết quả nghiên cứu
- Các đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là 102 bệnh nhân ngừng tuần hoàn tại Bệnh viện Nhi Trung ương trong thời gian từ tháng 06/2018 đến tháng 06/2019.
Bảng 1. Các đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Nhóm tuổi | Số bệnh nhân | Tỷ lệ (%) | Tuổi trung bình |
1 tháng đến 12 tháng | 44 | 43,1 | 36 ± 14,9 tháng (2 tháng – 15 tuổi) |
12 tháng đến 8 tuổi | 43 | 42,2 | |
Trên 8 tuổi | 15 | 14,7 | |
Giới tính | Số bệnh nhân | Tỷ lệ (%) | |
Nam | 52 | 51 | |
Nữ | 50 | 49 | |
Tổng | 102 | 100 |
Nhận xét: Trẻ nam chiếm 51%, nữ chiếm 49% và tỉ lệ nam/nữ là 1,04. Tuổi trung bình là 36 ± 14,9 tháng và lứa tuổi thường gặp nhất là dưới 12 tháng tuổi (43,1%)và ít gặp nhất là nhóm trên 8 tuổi (14,7%). Tuổi nhỏ nhất là 2 tháng và lớn nhất là 15 tuổi.
- Một số yếu tố liên quan kết quả cấp cứu ngừng tuần hoàn
Bảng 2. Kết quả cấp cứu ban đầu với các can thiệp trước cấp cứu
Can thiệp trước cấp cứu | Thành công (n, %) | Thất bại (n, %) | Tổng (n, %) | P | |
Monitor theo dõi | Có | 61 (70,1%) | 26 (29,9%) | 87 (100%) | < 0,05 |
Không | 5 (33,3%) | 10 (66,7%) | 15 (100%) | ||
Thuốc vận mạch | Có | 24 (61,5%) | 15 (38,5%) | 39 (100%) | > 0,05 |
Không | 42 (66,7%) | 21 (33,3%) | 63 (100%) | ||
Đặt nội khí quản | Có | 42 (65,6%) | 22 (34,4%) | 64 (100%) | > 0,05 |
Không | 24 (63,2%) | 14 (36,8%) | 38 (100%) |
Nhận xét: Tỷ lệ cấp cứu thành công (có tim trở lại) ở nhóm đã được mắc monitor theo dõi cao hơn so với nhóm chưa được mắc monitor (70,1% và 33,3%) với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Trong khi đó, tỷ lệ cấp cứu thành công ở nhóm chưa được sử dụng thuốc vận mạch cao hơn so với nhóm đã dùng thuốc vận mạch (67,7% và 61,5%) và nhóm đã được đặt nội khí quản cao hơn so với nhóm chưa đặt nội khí quản (65,6%và 63,2%) nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Bảng 3. Liên quan giữa kết quả cấp cứu ban đầu với rối loạn nhịp tim khi NTH
Rối loạn nhịp tim khi NTH | Thành công (n, %) | Thất bại (n, %) | Tổng (n, %) | P |
Nhịp chậm | 11 (91,7%) | 1 (8,3%) | 12 (100%) | < 0,05 |
Mất mạch còn điện tim | 22 (75,9%) | 7 (24,1%) | 29 (100%) | |
Nhịp nhanh thất mất mạch | 6 (60%) | 4 (40%) | 10 (100%) | |
Rung thất | 4 (57,1%) | 3 (42,9%) | 7 (100%) | |
Vô tâm thu | 23 (52,3%) | 21 (47,7%) | 44 (100%) |
Nhận xét: Tỷ lệ cấp cứu thành công ban đầu (có tim trở lại) cao nhất ở nhóm nhịp chậm (91,7%), tiếp theo là mất mạch còn điện tim (75,9%), nhịp nhanh thất mất mạch (60%), rung thất (57,1%) và thấp nhất ở nhóm vô tâm thu (52,3%) với sự khác biệt giữa các nhóm có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Bảng 4. Kết quả cấp cứu cuối cùng với các can thiệp khi cấp cứu NTH.
Can thiệp khi cấp cứu | Sống ra viện (n, %) | Tử vong (n, %) | Tổng (n, %) | P | |
Liều Adrenalin | ≤3 liều | 35 (100%) | 0 (0%) | 35 (100%) | < 0,05 |
> 3 liều | 31 (46,3%) | 36 (53,7%) | 67 (100%) | ||
Tiêm Bicarbonate | Có | 37 (56,9%) | 28 (43,1%) | 65 (100%) | < 0,05 |
Không | 29 (78,4%) | 8 (21,6%) | 37 (100%) | ||
Thời gian CPR | ≤10 phút | 46 (95,8%) | 2 (4,2%) | 48 (100%) | < 0,05 |
11-20 phút | 11 (84,6%) | 2 (15,4%) | 13 (100%) | ||
21-30 phút | 6 (60%) | 4 (40%) | 10 (100%) | ||
> 30 phút | 3 (9,7%) | 28 (90,3%) | 31 (100%) |
Nhận xét: Tỷ lệ sống ra viện ở nhóm tiêm Adrenalin tĩnh mạch ≤3 liều cao hơn so với tiêm Adrenalin tĩnh mạch> 3 liều (100% và 46,3%). Tỷ lệ này ở nhóm không được tiêm Bicarbonate cao hơn so với nhóm được tiêm Bicarbonate với tỉ lệ là 78,4% và 56,9% với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tỉ lệ sống khi ra viện cao nhất ở nhóm cấp cứu ngừng tuần hoàn ≤ 10 phút và thấp nhất ở nhóm cấp cứu >30 phút, với sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Bảng 5. Phân tích hồi quy đa biến các yếu tố liên quan đến hiệu quả cấp cứu.
Yếu tố liên quan | OR (95% CI) | P |
Nhóm tuổi | 2,38 (0,79 – 7,12) | > 0,05 |
Địa điểm cấp cứu | 1,31 (0,09 – 18,72) | > 0,05 |
Thời điểm ngừng tuần hoàn | 0,63 (0,02 – 13,55) | > 0,05 |
Monitor theo dõi | 0,82 (0,05 – 12,02) | > 0,05 |
Adrenalin tĩnh mạch | 10,89 (1,98 – 59,79) | < 0,05 |
Thời gian CPR | 1,86 (1,11 – 3,12) | < 0,05 |
Nhận xét: Khi phân tích đa biến, các yếu tố liên quan đến hiệu quả cấp cứu ngừng tuần hoàn là Adrenalin tĩnh mạch và thời gian cấp cứu ngừng tuần hoàn (<0,05)
- Bàn luận
4.1. Kết quả cấp cứu ban đầu với các can thiệp trước cấp cứu.
Tỷ lệ cấp cứu thành công (có tim trở lại) ở nhóm đã được mắc monitor theo dõi cao hơn so với nhóm chưa được mắc monitor (70,1% và 33,3%) với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Trong khi đó, tỷ lệ cấp cứu thành công ở nhóm chưa được sử dụng thuốc vận mạch cao hơn so với nhóm đã dùng thuốc vận mạch (67,7% và 61,5%) và nhóm đã được đặt nội khí quản cao hơn so với nhóm chưa đặt nội khí quản (65,6% và 63,2%) nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0.05) (Bảng 2). Tương tự trong nghiên cứu của Lopez và cộng sự (năm 2004), kết quả cũng cho thấy ở trẻ đã được đặt nội khí quản trước cấp cứu ngừng thì tỉ lệ thành công cao hơn tỉ lệ tử vong (59,9% và 41,1%). Theo tác giả, bệnh nhân đã được kiểm soát đường thở bằng nội khí quản sẽ thuận lợi hơn trong việc cấp cứu ngừng tuần hoàn. Ngoài ra, nguyên nhân gây ngừng tuần hoàn ở trẻ em chủ yếu là thiếu oxy nên đặt nội khí quản kiểm soát đường thở sớm sẽ cung cấp oxy hiệu quả hơn cho bệnh nhân[6]. Trong khi đó, theo nghiên cứu của tác giả Matamoros, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ tử vong giữa 2 nhóm có hay không có can thiệp như mắc monitor, thở máy hoặc dùng thuốc vận mạch [7].
4.2. Các rối loạn nhịp tim khi ngừng tuần hoàn.
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi,tỉ lệ cấp cứu thành công ban đầu (có tim trở lại) cao nhất ở nhóm nhịp chậm (91,7%), tiếp theo là mất mạch còn điện tim (75,9%), nhịp nhanh thất mất mạch (60%), rung thất (57,1%) và thấp nhất ở nhóm vô tâm thu (52,3%) với sự khác biệt giữa các nhóm có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) (Bảng 3). Trong nghiên cứu của Matamoros, tỉ lệ tử vong cao nhất ở nhóm rung thất cùng với nhịp nhanh thất mất mạch (đều là 100%). Trong khi đó, tỉ lệ tử vong ở nhóm vô tâm thu là 76,1%, nhịp chậm là 60%. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, nhóm vô tâm thu và nhịp chậm là chủ yếu (với 81,5% và 13,9%) trongky đó rung thất và nhịp nhanh thất mất mạch chỉ chiếm 2,8% các trường hợp. Theo tác giả này, do bệnh nhân trong nghiên cứu điều trị ở các đơn vị hồi sức cấp cứu không nhiều nên ngừng tuần hoàn thường được phát hiện muộn. Vì thế, tỉ lệ tử vong trong nghiên cứu này cao hơn so với các nghiên cứu khác vì tác giả cũng cho rằng thời gian phát hiện ngừng tuần hoàn cũng như tiến hành CPR sớm là rất quan trọng. Đây cũng là lý do mà các hình ảnh điện tâm đồ trong nghiên cứu chủ yếu là vô tâm thu (81,5%) trong đó nhịp chậm rất (13,9%)[7]. Theo Lopez và cộng sự (năm 2014), việc phát hiện ngừng tuần hoàn ở giai đoạn nhịp tim chậm là rất quan trọng vì đây là dấu hiệu sớm của ngừng tuần hoàn nên nếu CPR được tiến hành sớm sẽ làm tăng khả năng có tim trở lại và hạn chế được di chứng [1].
4.3. Kết quả cấp cứu cuối cùng với các can thiệp khi cấp cứu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ sống khi ra viện ở nhóm tiêm Adrenalin tĩnh mạch≤ 3 liều cao hơn so với tiêm adrenalin tĩnh mạch>3 liều (100% và 46,3%).Tỉ lệ này ở nhóm không được tiêm bicarbonate cao hơn so với nhóm được tiêm bicarbonate với tỉ lệ là 78,4% và 56,9% với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả cũng cho thấy thời gian cấp cứu càng dài thì tỷ lệ tử vong càng cao. Cụ thể, tỷ lệ sống khi ra viện cao nhất nhóm cấp cứu ngừng tuần hoàn ≤ 10 phút và thấp nhất ở nhóm cấp cứu >30 phút, với sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p> 0,05) (Bảng 4). Các nghiên cứu của tác giả Matamoros và Lopez (2014) cũng đưa ra nhận định tương tự khi cho thấy tỷ lệ tử vong cao hơn khi sử dụng Adrenalin từ 3 liều trở lên hoặc sử dụng Bicarbonat cùng với thời gian CPR kéo dài [1],[7]. Mặc dù adrenalin là thuốc vận mạch chủ yếu và quan trọng nhất dùng trong cấp cứu ngừng tuần hoàn tuy nhiên theo tác giả Lopez, những bệnh nhân có chỉ định dùng nhiều lần Adrenalin và cũng như sử dụng Bicarbonate đều là tình trạng bệnh nặng vì thế có tiên lượng xấu hơn và nguy cơ tử vong cao. Bệnh nhân chỉ định dùng Bicarbonat chứng tỏ có rối loạn thăng bằng toan kiềm và phản ánh tình trạng thiếu oxy kéo dài. Trong khi đó, thời gian CPR kéo dài phản ánh khả năng phục hồi của tim kém[1]. Khi phân tích đa biến, các yếu tố liên quan với kết quả điều trị cũng như tỉ lệ tử vong, chúng tôi nhận thấy sử dụng Adrenalin tĩnh mạch và thời gian CPR là 2 yếu tố ảnh hưởng đến kết quả cấp cứu ngừng tuần hoàn (p <0,05)(Bảng 5). Trong khi đó các yếu tố như tuổi, địa điểm cấp cứu (nội viện hay ngoại viện), thời điểm ngừng tuần hoàn và mắc monitor theo dõi không phải là các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả CPR.
Theo tác giả Lopez (2014) khi phân tích đa biến, các yếu tố liên quan đến hiệu quả cấp cứu ngừng tuần hoàn là sử dụng thuốc vận mạch trước khi ngừng tuần hoàn, sử dụng bicarbonate và thời gian CPR. Cũng theo tác giả này, thời gian cấp cứu là yếu tố tiên lượng tử vong quan trọng nhất, liên quan chặt chẽ và là yếu tố dự báo tử vong (OR=10,95%CI1: 3,07-8,89). Thời gian CPR càng dài thì nguy cơ sống sót của bệnh nhân càng thấp và nếu thời gian CPR kéo dài trên 20 phút thì khả năng sống sót của bệnh nhân là rất thấp [1]. Trong khi đó, theo phân tích đa biến của tác giả Matamoros, yếu tố tiên lượng tử vong quan trọng nhất là ngừng tim không do bệnh hô hấp (OR=2,55; 95% CI: 1,21-6,39), sử dụng Adrenalin tĩnh mạch (OR=4,96; 95% CI:1,51-16,35), thời gian CPR trên 10 phút (OR=3,40; 95% CI:1,31-8,89)[7].
Theo tác giả Jung Lee, khi phân tích đa biến, tuổi, giới tính không liên quan đến kết quả CPR. Số lần tiêm adrenalin và thời gian CPR là các yếu tố tiên lượng tử vong. Trong nghiên cứu tác giả dựa vào các tiêu chí đánh giá: có tim trở lại, sống sót khi ra viện, di chứng thần kinh trên những bệnh nhân nhi ngừng tuần hoàn ngoại viện. Tác giả cho rằng số lần tiêm Adrenalin ít hơn có liên quan với tăng tỷ lệ sống sót của bệnh nhân. Khi thời gian CPR ngắn thì tỷ lệ có tim trở lại và sống sót khi ra viện tăng lên. Theo tác giả thời gian CPR ngắn thì thời gian cung cấp máu cho hệ thống tuần hoàn sớm hơn và cải thiện kết quả điều trị. Ngược lại thời gian CPR kéo dài để lại kết cục xấu về tiên lượng thần kinh ở những trẻ sống sót khi ra viện [8]. Năm 2010, hướng dẫn cấp cứu nhi khoa APLS đã thay thế CPR theo trình tự ABC (Đường thở – thở – tuần hoàn) bằng CAB (Tuần hoàn – đường thở – thở) và nhấn mạnh tầm quan trọng của CPR ưu tiên ép tim tuy nhiên tỷ lệ có tim trở lại cũng như sống sót khi ra viện không cải thiện đáng kể. Do hầu hết ở trẻ em được do các nguyên nhân hô hấp nên hiện nay CPR truyền thống với ép tim và hô hấp hỗ trợ luân phiên nhau liên tục đã được khuyến nghị cho cấp cứu ngừng tuần hoàn ở trẻ em [9].
- Kết luận
Qua đánh giá các yếu tố liên quan đến kết quả xử trí cấp cứu ngừng tuần hoàn trên 102 trẻ tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 6/2018 –tháng 6/2019, chúng tôi đưa ra một số kết luận: tỷ lệ cấp cứu thành công ban đầu (có tim trở lại) cao nhất ở nhóm nhịp chậm và thấp nhất ở nhóm vô tâm thu. Tỉ lệ sống khi ra viện ở nhóm không được tiêm Bicarbonate cao hơn so với nhóm được tiêm bicarbonate. Khi phân tích đa biến, thời gian cấp cứu ngừng tuần hoàn, và sử dụng Adrenalin là những yếu liên quan đến hiệu quả cấp cứu ngừng tuần hoàn.
Tài liệu tham khảo
- Jesús López-Herce,Jimena del Castillo,Sonia Cañadas, et al. In-hospital Pediatric Cardiac Arrestin Spain. Rev Esp Cardiol, 2014;67(3):189–195.
- Tress EE, Kochanek PM, Saladino RA, Manole MD. Cardiac arrest in children. J Emergencies Trauma Shock. 2010; 3(3):267.
- Atkins D.,Everson-StewartS., SearsG.K., et al. Epidemiology and outcome from out-of-hospital cardiac arrest in children: the resuscitation outcomes consortium epistry-cardiac arrest. Circulation, 2009; 119:148-4.
4.Tania Miyuki Shimoda-Sakano, Cláu-dio Schvartsman, Amélia, et al. Epidemiology of pediatric cardiopulmonary resuscitation. Jornalde Pediatria, 2020; 96 (4), 409-421.
- K. Maconochie, Robert Bingham, Christoph Eich, et al.European Resuscitation Council Guidelines for resuscitation 2015; Section 6. Paediatric life support, Resuscitation, 2015; 95, 223–248.
- Lopez-HerceJ, GarciaC,DominguezP,etal.Characteristics and outcome of cardiorespiratoryarrestinchildren. Resuscitation, 2004; 63:311-20.
- Martha Matamoros, Roger Rodriguez,Allison Callejas, et al.In-hospital Pediatric Cardiac Arrest in Honduras. Pediatric Emergency Care,2015; 31(1):31-5.
- Jung Lee, Wen-ChiehYang, En-Pei Lee, et al.Clinical Survey and Predictors of Outcomes of Pediatric Out-of-Hospital Cardiac Arrest Admitted to the Emergency Department, Scientific Reports, 2019; 9 (1):7032).
9.Berg, M. D. et al. Part 13:Pediatric Basic Life Support. 2010 American Heart Association Guidelines for Cardiopulmonary Resuscitation and Emergency Cardiovascular Care. Circulation 122, S862–S875 (2010)
Bản quyền và thương hiệu: Thông tin và hình ảnh trên website thuộc quyền sở hữu của Vinmecdr. Việc sao chép, sử dụng phải được Vinmecdr chấp thuận trước bằng văn bản.
Miễn trừ trách nhiệm: Tất cả những tư liệu được cung cấp trên website này đều mang tính tham khảo. Do đó, nội dung và hình ảnh sẽ được thay đổi, cập nhật và cải tiến thường xuyên mà không phải thông báo trước. Vinmecdr không bảo đảm về độ chính xác cũng như sự hoàn thiện về thông tin. Chúng tôi không chịu trách nhiệm pháp lý cho những thiệt hại xuất hiện trực tiếp hay gián tiếp từ việc sử dụng hoặc hành động dựa theo những thông tin trên hoặc một số thông tin xuất hiện trên website này. Vinmecdr không chịu trách nhiệm pháp lý về những sai sót, lỗi chính tả… do nhập liệu cùng với những sự cố khách quan khác như: nhiễm virus, hành vi phá hoại, ác ý… xảy ra trên website này cũng như các website liên kết, nếu có.
Đường link liên kết
Vinmecdr sẽ không chịu trách nhiệm hay có nghĩa vụ pháp lý dưới bất kỳ hình thức nào về nội dung của những website không thuộc Vinmecdr được liên kết với website www.vinmecdr.com, bao gồm các sản phẩm, dịch vụ và những mặt hàng khác được giới thiệu thông qua những website đó.