Khuyến nghị về chẩn đoán và đánh giá bệnh phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối
Bài viết sau đưa ra những khuyến nghị về cách chẩn đoán, đánh giá bệnh phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối dựa vào các kỹ thuật hình ảnh và triệu chứng lâm sàng. Từ đó, đưa các lựa chọn điều trị phù hợp để mang lại kết quả tối ưu. Và cuối cùng là theo dõi và giám sát những trường hợp không cần can thiệp cũng như kết quả sau điều trị của những trường hợp cần can thiệp.
1. Chẩn đoán và đánh giá bệnh phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối
Nội dung bài viết
Khuyến nghị chẩn đoán và đánh giá bệnh phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối | ||
Khuyến nghị | Độ mạnh của khuyến nghị | Chất lượng của bằng chứng |
1.1. Ở những bệnh nhân được cho là có bệnh phình động mạch dạ dày hoặc động mạch vị mạc nối, chúng tôi khuyến nghị lựa chọn chụp cắt lớp mạch (Computed Tomography angiography – CTA) làm công cụ chẩn đoán. | 1 (Mạnh) | B (Trung bình) |
1.2. Ở những bệnh nhân được cho là có bệnh phình động mạch dạ dày hoặc động mạch vị mạc nối và có nguy cơ phơi nhiễm bức xạ cao hoặc suy thận, chúng tôi khuyến nghị dùng chụp cộng hưởng từ (Magnetic Resonance Angiography – MRA) không tăng cường chất đối quang để chẩn đoán. | 1 (Mạnh) | C (Thấp) |
Nhận xét kỹ thuật: MRA không tăng cường chất cản quang phù hợp nhất với trẻ em và phụ nữ có khả năng sinh đẻ hoặc những người có chống chỉ định với chất cản quang CTA hoặc MRA (ví dụ: mang thai, suy thận, hoặc dị ứng chất cản quang gadolinium). | ||
1.3. Chúng tôi khuyến nghị sử dụng phương pháp chụp động mạch bằng ống thông (catheter) cho tất cả các trường hợp cấp cứu có biểu hiện vỡ (Mức độ 1B) và dùng một cách tự chọn để lập kế hoạch trước phẫu thuật (Mức độ 1C). | 1 (Mạnh) | B (Trung bình) C (Thấp) |
Phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối chiếm khoảng 4 – 5% trong tổng số các trường hợp phình động mạch nội tạng, ảnh hưởng đến nam giới thường xuyên hơn nữ giới (với tỉ lệ 3:1). Các yếu tố nguy cơ bệnh lý chủ yếu bao gồm loạn sản động mạch nguyên phát với ly giải lớp giữa thành động mạch phân đoạn và viêm quanh động mạch như viêm tụy và viêm mạch; Xơ vữa động mạch, khi xuất hiện, được cho là một tình trạng thứ phát.
Chụp ảnh cắt lớp theo trục ngang, lý tưởng là cắt lớp vi tính mạch (Computed Tomography Angiography – CTA), vẫn là kỹ thuật chẩn đoán được lựa chọn vì nó phát hiện bệnh phình động mạch tình cờ và không có triệu chứng và hướng dẫn lập kế hoạch phẫu thuật và điều trị nội mạch
2. Tiêu chí kích thước cho can thiệp xâm lấn bệnh phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối
Tiêu chuẩn khuyến nghị cho can thiệp xâm lấn trong bệnh phình động mạch dạ dày và vị mạc nối | ||
Khuyến nghị | Độ mạnh của khuyến nghị | Chất lượng của bằng chứng |
2.1. Chúng tôi khuyến nghị nên điều trị tất cả các trường hợp phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối ở bất kỳ kích thước nào. | 1 (Mạnh) | B (Trung bình) |
Phình động mạch dạ dày phổ biến hơn gấp 10 lần bệnh phình động mạch vị mạc nối. Mặc dù bệnh nhân có thể kèm theo đau bụng, và đến 90% bệnh nhân có lịch sử vỡ cấp tính, nhưng bằng chứng lại cho thấy xuất huyết tiêu hóa phổ biến hơn vỡ trong phúc mạc (1/3). Khuyến nghị điều trị tất cả các bệnh phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối, bất kể kích thước, do nguy cơ vỡ ở túi phình có các kích thước tương đối nhỏ.
3. Những lựa chọn điều trị bệnh phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối
Tiêu chuẩn khuyến nghị cho can thiệp xâm lấn trong bệnh phình động mạch dạ dày và vị mạc nối | ||
Khuyến nghị | Độ mạnh của khuyến nghị | Chất lượng của bằng chứng |
3.1. Chúng tôi khuyến nghị phương pháp thuyên tắc nội mạch để điều trị đầu tay trong bệnh phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối. | 1 (Mạnh) | B (Trung bình) |
Xử trí phẫu thuật dựa vào thắt hoặc cắt bỏ động mạch đơn giản mà không cần tái tạo, trong khi bệnh phình động mạch trong vách (giữa lớp áo trong và lớp áo giữa) đòi hỏi phải cắt bỏ một đoạn hình nêm của thành dạ dày liên quan. Các tài liệu hiện tại ủng hộ việc làm thuyên tắc các túi phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối bằng ống thông (catheter) như là tiêu chuẩn mới của việc chăm sóc, với nhiều báo cáo đa trường hợp và loạt bài nhỏ ghi nhận trường hợp làm tắc mạch thành công bằng cuộn dây (coils) và tiêm thrombin. Thuyên tắc các phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối, thậm chí đã vỡ, mang lại thành công kỹ thuật > 90%, và tỷ lệ mắc bệnh và tử vong thấp. Ghép stent đã được mô tả nhưng chưa thực sự chính xác. Chụp cắt lớp theo trục ngang theo khuyến cáo sẽ sàng lọc đồng thời các bệnh phình động mạch thường gặp không phải động mạch chủ trong ổ bụng.
Chúng tôi khuyến nghị nên tầm soát phình mạch não và phình động mạch vành khi nghi ngờ chẩn đoán ly giải lớp giữa thành động mạch phân đoạn, dựa trên tính chất toàn thân của chứng loạn sản động mạch này,tầm soát một lần ở đầu, cổ và ngực bằng CTA hoặc MRA. Chúng tôi khuyến nghị giám sát định kỳ (ví dụ, 12 tháng một lần) với hình ảnh trục (ví dụ, CTA hoặc MRA) trong các trường hợp tiêu lớp giữa thành động mạch phân đoạn dựa trên các trường hợp biến đổi động mạch nhanh chóng được báo cáo.
Chúng tôi khuyến nghị nên theo dõi sau thuyên tắc sau mỗi 1 đến 2 năm với hình ảnh trục để đánh giá khả năng tái tạo mạch máu và bằng chứng về sự tái tưới máu của túi phình.
4. Tầm soát các bệnh phình động mạch đồng thời
Khuyến nghị để sàng lọc bệnh nhân phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối | ||
Khuyến nghị | Độ mạnh của khuyến nghị | Chất lượng của bằng chứng |
4.1. Chúng tôi khuyến nghị nên chụp ảnh cắt lớp bụng theo mặt phẳng ngang để tầm soát các bệnh phình động mạch bụng đồng thời. | 2 (Yếu) | B(Trung bình) |
4.2. Chúng tôi khuyến nghị nên thực hiện tầm soát một lần vùng đầu, cổ và ngực bằng CTA (hoặc MRA) cho những bệnh nhân bị tiêu lớp giữa thành động mạch phân đoạn. | 2 (Yếu) | C (Yếu) |
5. Theo dõi và giám sát bệnh nhân phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối
Khuyến nghị cho theo dõi và giám sát bệnh nhân phình động mạch dạ dày và động mạch vị mạc nối | ||
Khuyến nghị | Độ mạnh của khuyến nghị | Chất lượng của bằng chứng |
5.1. Chúng tôi đề nghị theo dõi theo từng khoảng (tức ví dụ, 12 – 24 tháng một lần) với chụp ảnh trục (ví dụ, CTA hoặc MRA) trong các trường hợp tiêu lớp giữa thành động mạch phân đoạn dựa trên các trường hợp biến đổi động mạch nhanh chóng được báo cáo. | 2 (Yếu) | B (Trung bình) |
5.2. Chúng tôi đề nghị nên theo dõi sau thuyên tắc mỗi 1 đến 2 năm với hình ảnh cắt lớp theo mặt phẳng ngang để đánh giá khả năng tái tạo mạch máu và bằng chứng về sự tái tưới máu của túi phình. | 2 (Yếu) | C (Trung bình) |
Nguồn: jvascsurg.org