Ca lâm sàng 11: Bệ chuyển trong phẫu thuật Implant
Mục tiêu của ca lâm sàng này: Hiểu được ảnh hưởng của bệ chuyển lên sự tiêu mào xương và phân bố ứng suất, cơ chế ngăn ngừa tiêu mào xương của bệ chuyển và sự tương tác với mô mềm, sự ảnh hưởng của bệ chuyển lên mô mềm quanh abutment để đạt được kết quả thẩm mỹ tốt hơn. Cùng tìm hiểu.
1. Tình huống ca lâm sàng
Nội dung bài viết
Bệnh nhân nữ, người Hàn Quốc, 53 tuổi, đã được điều trị phục hồi diện rộng bởi nha sĩ tổng quát. Bệnh nhân đến phòng khám để được tư vấn implant. Nha sĩ tổng quát của bệnh nhân cho biết đã hoàn tất các phục hồi, nhưng do sâu răng tái phát nên chúng đã thất bại. Bệnh nhân đang tìm kiếm một giải pháp lâu dài hơn.
2. Đánh giá ca lâm sàng
- Tiền sử y khoa:
- Bệnh nhân có sức khỏe tốt và được kiểm tra sức khỏe định kỳ mỗi 4 tháng. Không có chống chỉ định điều trị. Không ghi nhận dị ứng thuốc và không có các vấn đề y khoa.
- Bệnh nhân không có tiền sử:
- sốt thấp khớp, bệnh tim, phẫu thuật tim
- các bệnh lý suy giảm miễn dịch (ví dụ, viêm gan, virus suy giảm miễn dịch ở người, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải)
- chảy máu kéo dài hoặc dễ bị bầm tím
- rối loạn nội tiết
- bệnh lý ác tính
- điều trị nội khoa
- khớp giả.
- Đánh giá toàn thân
- Dấu hiệu sinh tồn
- Huyết áp: 130/82 mmHg
- Nhịp tim: 62 lần/phút
- Nhịp thở: 16 lần/phút
- O2 bão hòa: 99%
- Trọng lượng: 120 lbs
- Tiền sử xã hội: Bệnh nhân làm nhân viên giao dịch tại ngân hàng. Bệnh nhân cho biết mình từng có một khoảng thời gian khó khăn khi phải cân bằng giữa 40 giờ làm việc/ tuần, gia đình và con cái. Bệnh nhân còn cho biết mình không có đủ thời gian để kiểm tra răng định kỳ. Bệnh nhân không uống rượu hay hút thuốc lá.
- Dấu hiệu sinh tồn
- Khám ngoài mặt: Không ghi nhận bất thường. Bệnh nhân không có khối u hoặc sưng, và không bị cứng khít hàm. Không có khối sưng khi sờ. Hàm hơi lệch trái khi bệnh nhân há miệng. Không có tiếng kêu khi há.
- Khám trong miệng:
- Không có khối sưng hoặc tổn thương khi khám mô mềm. Khám nướu cho thấy nướu hơi đỏ.
- Mô sừng hóa ít và ngách hành lang cạn ở vùng mất răng bên trái. Răng #48 có mão kim loại toàn diện và lung lay độ 3. Răng #45 cũng có mão kim loại toàn diện.
- Răng #41 là implant và răng #33 có mão sứ-kim loại.
- Hàm trên mất răng toàn hàm.
- Khớp cắn: Mất kích thước dọc, và các răng hàm dưới trồi
- Phim X-quang:
- Hàm trên mất răng toàn hàm với xoang hàm thấp ở hai bên.
- Răng #48 tiêu xương trầm trọng, đã điều trị nội nha và mão kim loại không tốt. Do tiêu xương nên răng này sẽ được nhổ. Răng #45 tiêu xương nhẹ và bị sâu răng tái phát.
- Răng #44 và #43 có phục hồi trực tiếp. Răng #42, #31 #32, và #34 đã điều trị nội nha, và răng #33 có mão sứ-kim loại. Có một implant tại vị trí #41.
- Vùng mất răng ở phần tư hàm dưới bên phải còn đủ kích thước và đủ khoảng cách đến thần kinh xương ổ dưới để có thể đặt implant.
- Tiêu xương trầm trọng ở vùng mất răng hàm dưới bên phải và không đủ khoảng để đặt implant do nằm sát ống thần kinh xương ở dưới.
Phim toàn cảnh trước phẫu thuật của bệnh nhân.
3. Chẩn đoán, kế hoạch điều trị về ca lâm sàng này
- Điều trị: Mặc dù một kế hoạch điều trị toàn diện đã được trình bày với bệnh nhân nhằm giải quyết tất cả các vấn đề, nhưng bệnh nhân chỉ muốn đặt implant, #37 – #34, #46, và #47. Khi kế hoạch điều trị thực tế được chấp thuận, bệnh nhân được hướng dẫn vệ sinh răng miệng và cạo vôi răng.
- Tư vấn trước phẫu thuật
- Sau khi tái đánh giá, bệnh nhân bắt đầu được chuyển sang giai đoạn phẫu thuật. Đánh giá tiền sử y khoa, và phiếu chấp thuận mô tả những lợi ích và nguy cơ liên quan đến phẫu thuật đã được bệnh nhân xem xét và ký tên.
- Bệnh nhân được dặn dò ngừng uống aspirin > 81 mg 7 ngày trước phẫu thuật. Trước khi phẫu thuật, bệnh nhân được dặn dò uống amoxicillin 875 mg 2 lần/ngày trong 7 ngày, và ibuprofen 600 mg mỗi 6 giờ trong 5 ngày để giảm đau nếu cần.
- Đặt implant
- Vùng mất răng được gây tê vùng thần kinh xương ổ dưới bằng carbocaine 4% không có epinephrine và gây tê tại chỗ bằng septocaine 2% (1:100,000 epinephrine). Răng #48 không giữ được do tiêu xương gây lung lay độ 3. Rạch mào xương và lật vạt toàn bộ ở sống hàm mất răng hàm dưới từ vị trí nhổ răng đến răng #45. Tạo đường rạch đứng (khoảng 4mm) ở phía gần sống hàm phía ngoài và phía trong, sau đó khâu chỉ 4-0 cố định để quan sát tốt hơn.
- Bắt đầu khoan xương với tốc độ 1000 vòng/phút có nước muối bơm rửa. Khoan tuần tự cho cả hai implant #46 và #47. Đặt implant Megagen Exfeel 5 mm x 10 mm cho răng #47, và implant Megagen Exfeel 4.5 mm x 11.5 mm cho rằng #46. Cả hai implant đều được đặt ngang xương.
- Chụp phim X-quang sau phẫu thuật. Vị trí implant bình thường, và không xâm phạm ống thần kinh. Gắn vít đậy để che và bảo vệ phần kết nối trong của implant, rồi đóng vạt để bắt đầu lành thương trong 2 tháng.
- Sau 2 tháng, phẫu thuật thì hai được tiến hành để bộc lộ và tháo vít đậy. Gắn trụ lành thương.
- Sau 4 tháng, tháo trụ lành thương để tiếp tục giai đoạn phục hình.
- Phần hàm bên trái cũng được thực hiện quy trình phẫu thuật tương tự. Đặt implant Megagen EZ plus ngang xương tại các vị trí #37, #36, #35, và #34. Phim X-quang sau phẫu thuật cho thấy vị trí cấy ghép lý tưởng và không tổn hại các cấu trúc giải phẫu. Gắn vít đậy lên từng implant, và đóng vạt bằng mũi khâu rời.
- Sau 2 tháng, tháo vít đậy, gắn trụ lành thương, và sử dụng hệ thống bệ chuyển cho #36, #35, và #34. Bốn tháng sau, tháo trụ lành thương và lấy dấu để làm phục hình sau cùng.
- Tư vấn trước phẫu thuật
- Phim X-quang theo dõi sau phẫu thuật: Xem Hình 2, 3, 4, 5, 6, 7, và 8.
(A) Phim toàn cảnh sau phẫu thuật cho thấy cả hai bên hàm đều đã được đặt implant. (B, C) Implant được đặt ngang xương ở cả hai bên; không có cấu trúc giải phẫu nào bị tổn hại.
Hai tháng sau phẫu thuật. Mức độ xương nằm trong giới hạn lành thương chấp nhận được cho giai đoạn này.
Phim toàn cảnh chụp 6 tháng sau khi đặt implant so sánh vị trí có bệ chuyển và không có bệ chuyển. Lưu ý sự tiêu xương ở mào xương quanh implant ở hàm dưới bên trái (Q.5 mm & implant #46).
Tiếp tục theo dõi bệnh nhân sau 1 năm. Sự tiêu xương rõ rệt hơn ở các implant hàm dưới bên trái. Mức độ xương quanh implant ở bên phải có vẻ tốt; tiêu xương không phải là vấn đề.
Theo dõi các implant không có bệ chuyển cho thấy tiêu xương nhiều hơn sau 2 năm gắn phục hình sau cùng. Mũi tên màu xanh là phần nối implant-abutment.
(A) Hai năm sau khi đặt implant, sự tiêu xương quanh cổ implant ở hàm dưới bên trái lên đến 2mm (đường màu đỏ là mức độ xương ban đầu vào 2 năm trước). (B) Mức độ xương quanh implant ở hàm dưới bên phải được giữ ở mức tốt và liên quan đến bệ chuyển.
Theo dõi sau 3 năm. Bằng chứng X-quang cho thấy tiêu xương ở bên đặt implant không có bệ chuyển nhiều hơn so với hàm dưới bên phải được làm phục hình bệ chuyển.
Nguồn tài liệu: Clinical Cases in Implant Dentistry, First Edition – Published 2017 by John Wiley & Sons, Inc.